Quá trình hình thành quốc hiệu Việt Nam

11 Comments

Trước và trong thời Hai Bà Trưng, tiên tổ của người Việt Nam hôm nay gọi đất nước mình là gì? Đó là một câu hỏi khó. Tuy vậy, tôi cũng tạm nêu ra từ “Âu Lạc”, trong đó Âu là Đất, Lạc là Nước. Từ ghép “Âu Lạc” mang nghĩa là đất nước hay xứ sở[1]. So sánh hơi khập khiễng thì tổ chức xã hội Âu Lạc khi ấy không khác mấy vùng đồng bào thiểu số Tây Nguyên cách đây trên dưới 100 năm. Nếu người Pháp từng kí âm “Đạ Lạch” thành Đà Lạt (nghĩa gốc là nước của người Lạch, xứ sở của người Lạch) thì người Hán cũng đã kí âm “Đất nước” thành “Âu Lạc”. Chúng ta chỉ hình dung được: dường như Âu Lạc – Đất Nước có qui mô lớn hơn Đà Lạt – Nước Lạch.

Từ Âu Lạc xuất hiện lần đầu tiên trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Song nó hàm nghĩa rất rộng, đó là một khu vực bao la gồm Quảng Tây, Quảng Đông và miền bắc Việt Nam ngày nay. Vương quốc Âu Lạc nửa hư nửa thực gắn với An Dương Vương hầu như chỉ là sự ghép nối vụng về các mảnh sử liệu rời rạc có sau Sử kí.

Trên một góc nhìn nào đấy thì nước Nam Việt của Triệu Đà cũng có thể mang tên bản địa là Âu Lạc. Sử kí viết về nước Nam Việt, nhưng luôn nêu rõ dân là dân Việt, tuồng như trong thông nghĩa Bách Việt (hàng trăm / nhiều tộc Việt khác nhau phía nam Trường Giang).

Vậy chủ nhân của mảnh đất Việt Nam hôm nay có phải người Việt không, hay Việt chỉ là một từ ngoại lai mà lịch sử trót dùng.

1. Nước Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc.

Theo Việt vương Câu Tiễn thế gia (Sử kí thiên 41[2]): Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ vua Hạ Vũ. Con thứ vua Thiếu Khang đời Hạ được phong đất Cối Kê để thờ cúng vua Hạ Vũ. Họ khai hoang lập ấp, cắt tóc xâm mình, trải qua hai mươi đời thì đến Doãn Thường. Doãn Thường đánh nhau với vua ngô là Hạp Lư. Doãn Thường chết, Câu Tiễn được lập làm Việt vương.

Các chú giải của đoạn Sử kí trên:

  1. Sách Chính Nghĩa, trích lại từ Ngô Việt xuân thu (viết vào năm 232 đến 300): Vua Hạ Vũ đi khắp thiên hạ, đến Đại Việt, lên Mao Sơn họp quần thần bốn phương phong thưởng, rồi mất và được an táng tại đó. Đến thời Thiếu Khang, vua sợ không ai tế tự tôn miếu, bèn phong con thứ là Ư Việt hiệu Vô Dư đất ấy.
  2. Sách Cối Kê kí viết rằng: Con thứ của vua Thiếu Khang hiệu là Ư Việt, do đó tên nước Ư Việt xuất phát từ tên hiệu ấy.
  3. Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt.
  4. Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại.
  5. Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác vòng lễ nghĩa Hoa Hạ.

Sau khi Câu Tiễn diệt Ngô, quân Việt vượt sông Hoài cùng các nước Tề và Tấn hội ở Từ Châu, cung tiến vật phẩm cho triều Chu. Chu Nguyên Vương phong Câu Tiễn là Bá, trông coi các chư hầu vùng Giang Nam.

Đến đời Việt vương Vô Cương, Sở Uy Vương diệt nước Việt. Con cháu Câu Tiễn cũng như giới quí tộc Việt lưu lạc khắp miền Giang Nam, xưng tiểu vương hoặc quân trưởng và thần phục vua Sở.

Đến Tần mạt, hai quân trưởng vùng đất Mân là Dao và Vô Chư giúp Hán cao tổ đánh quân Tần. Năm 202 TCN Vô Chư được phong Mân Việt Vương cai quản vùng phía nam đất Mân (Quận Mân Trung thời Tần). Năm 192 TCN Dao lại được nhà Hán phong làm Đông Âu vương, cai quản vùng phía bắc đất Mân, ở lưu vực sông Âu.

Trong Sử Kí của Tư Mã Thiên, Ư Việt (於越) còn được viết là Vu Việt (于越 – Hóa thực liệt truyện SK 129). Sách Thuyết văn giải tự : Vu = Ư dã (là Ư vậy).

2. Dân Âu Việt là ai?

Cũng Sử Kí (Triệu Thế gia SK 43[3]) ghi nhận: 夫翦发文身,错臂左衽, 瓯越之民也 / Phu tiễn phát văn thân, thác tí tả nhẫm, Âu Việt chi dân dã / Như người Âu Việt, đàn ông cắt tóc, vẽ mình, đặt vạt áo về bên tay trái.

Sách đời sau chú đoạn Sử Kí trên khá nhiều, với mục đích trả lời câu hỏi “Âu Việt chi dân” là ai:

–          Sách Ẩn nói theo Lưu Thị thì người Châu Nhai, Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam ngày nay) là người Âu nên có từ Âu Việt.

–          Sách Chính Nghĩa cho rằng họ là người Nam Việt của Triệu Đà.

Xét trên đặc trưng văn hóa được Sử Kí ghi nhận thì người Âu Việt, người Ư Việt hay Vu Việt gần như là một. Để chứng minh Ư = Vu = Âu, cần phải có một công trình ngôn ngữ học truy nguyên các ngữ âm Hán cổ, cũng như cách kí âm phương ngữ bằng Hán tự của người Trung Quốc xưa.

Chữ Âu ở đây rất quan trọng, nó có liên quan mật thiết với cổ sử Việt Nam, vì một trong những thuật ngữ mù mờ nhất trong cổ sử Việt Nam là từ Âu Lạc. Sử Kí đã dùng những chữ Âu sau:

  1. Đông Âu: Xứ sở của Đông Âu vương tên Dao. Từ này xuất hiện trong các thiên: Hiếu Vũ Bản Kỉ SK 12, SK 114, SK 22, SK 30.
  2. Âu Lạc : Nói chung toàn khu vực Nam Việt, kể cả Mân Việt / SK 20, SK 113.
  3. Người Đông Âu ở bên bờ sông Âu / SK 114, SK 22.
  4. Âu Việt : Người Âu Việt / SK 43.
  5. Âu nhân : người Đông Âu / SK 130.
  6. Âu Thoát : Tên một vùng đất của Hung Nô phía bắc / SK 114.

Theo Thuyết Văn giải tự, Âu = 甌:小盆也從瓦區聲 / Tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh (Cái bồn nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu). Chữ Âu 甌 ghép bởi chữ Khu 區 (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa 瓦 là ngói, đồ gốm.

Xin đề nghị một liên tưởng dân dã:

U = nhô lên = đồi, núi ~ vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) = rú (âm Việt cổ chỉ núi, trong từ rừng rú).

Vú em = dưỡng mẫu

U = mẹ

Bu = mẹ già

Khu (đất) ~ u = mẹ.

Khu = vực = đất

Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu. Ta có thể có mối tương quan giữa các âm như sau: Ư = Vu = Khu = Âu = U = Bu = Mẹ = Đất = Rú (Núi = Non).

Biến âm giữa U sang Âu được ghi nhận khá nhiều: Chu / Châu , Thu / Thâu, U / Âu ( u sầu = âu sầu) …

Như vậy, hoàn toàn tồn tại khả năng người Trung Quốc đã dùng Hán tự để kí âm phương ngữ vùng Giang Nam để nói về nước Ư Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc. Từ nước Việt bên giòng Trường Giang ấy mà liên hệ ngôn ngữ với nước Việt Nam hôm nay là rất khó thuyết phục, tuy nhiên đặc trưng văn hóa cắt tóc xâm mình tương đồng là không thể phủ nhận. Có chăng một cuộc di cư lớn, kéo dài hàng trăm năm của cư dân và quí tộc Ư Việt sau khi nước Việt bị nước Sở sáp nhập? Nếu hậu duệ Câu Tiễn từng được ghi nhận chạy loạn xuống Mân Việt (địa bàn tỉnh Phúc Kiến ngày nay), thì không có lí do gì không có những nhánh khác đi xa hơn như đến Quảng Đông, đảo Hải Nam, bờ biển Hợp Phố (Quảng Tây) và đồng bằng sông Hồng.

3. Âu Lạc – Lạc Việt

Khi hai dân tộc, hai nền văn hóa vì những biến động lịch sử vô tình hòa vào nhau, kết hợp làm một, nó sẽ để lại dấu tích trong ngôn ngữ. Đó sẽ là những tổ hợp từ sinh ra trên cơ sở phối hợp hai từ đồng nghĩa của hai nền văn hóa riêng biệt. Từ mới nọ tất nhiên phải đồng nghĩa với hai từ cũ. Ví dụ:

Chó = Má = Chó má (Thái + Việt)

Chia = Ly = Chia ly (Việt + Hán)

Vậy phải chăng Âu Lạc chính là hợp từ sinh ra bởi Âu và Lạc. Nếu câu chuyện này thuyết phục, thì ta có thể truy ngược được nghĩa Âu.

Tại hội nghị nghiên cứu thời kì Hùng Vương năm 1971, trong tham luận “Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc”, Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã giải thích Lạc nghĩa là nước. Hai ông cũng liên hệ được Lạc với Nác (tức nước) theo phương ngữ miền trung Việt Nam. Bằng các phương pháp truy nguyên ngữ âm học, các chuyên gia ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay đã đi đến kết luận chữ Giang trong Trường Giang là Hán tự kí âm phương ngữ. Thật vậy, chữ Giang ghép bởi chữ Thủy (mang nghĩa nước, sông) và chữ Công (kí âm). Công có họ hàng với Krông, tức là dòng sông, dòng suối trong ngôn ngữ của cộng đồng người Đông Nam Á cổ và hiện vẫn tồn tại trong ngôn ngữ Tây Nguyên. Trường hợp tên gọi Mêkông[4] (tiếng Thái, tức là mẹ của các dòng sông, dòng suối) cũng vậy. Ngày nay ở Tây Nguyên nhóm từ Đạ / Đak / Krông đều chỉ nước, sông, suối.

Theo tôi từ Lạc không đơn thuần chỉ là nước mà nó đôi khi còn được sử dụng với nghĩa Xứ Sở với các dẫn chứng liên hệ như Negeri (tiếng của người Mianagkabau ở Malaysia), Nưgar (tiếng của người Chiêm Thành).

Như vậy, khi xâu chuỗi các nghiên cứu trên lại với nhau ta có một nhóm từ tố mang nghĩa rất giống nhau là : Đạ / Đak / Krông / Lạc / Nác / Nước / Nưgar / Negeri.

Giả định Âu Lạc = Đất nước đến đây đã trở nên không hề hoang tưởng. Thậm chí nó có thể mở ra cách giải nghĩa một từ có liên đới là Lạc Việt: tên gọi này thể hiện sự kết hợp hai chủng tộc là bản địa (Lạc) với con dân cũ của nước Việt di cư xuống. Ở góc độ nào đó, nó là sự rút gọn của Lạc – Âu Việt.

4. Nam Việt

Mở đầu thiên Nam Việt liệt truyện (Sử kí 113[5]) đã thấy Tư Mã Thiên dùng từ Việt với hàm í dân Việt: 秦时已并天下,略定杨越 置桂林,  南海、象郡, 以谪 徙民,与越杂处十三岁 / Tần thời dĩ tính thiên hạ, lược định Dương Việt trí Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận, dĩ trích tỉ dân, dữ Việt tạp xứ thập tam tuế. Nghĩa là: Nhà Tần, sau khi chiếm cả thiên hạ bèn lấy đất Dương Việt chia thành quận Quế Lâm, quận Nam Hải và quận Tượng, bắt những người bị tội đày xuống sống chung với người Việt, việc diễn ra đã được 13 năm. Về tổng thể, thời Tây Hán sách sử Trung Quốc đều thống nhất cho rằng chủ nhân nước Nam Việt là người Việt.

Chữ Việt trong tiếng Hán: 越. Thuyết Văn tự giải của Hứa Thận thời Đông Hán định nghĩa: 度也從走戉聲 / Độ dã tòng tẩu việt thanh (Nghĩa là vượt qua, bộ tẩu, âm như chữ Việt là chiếc rìu đá). Một chữ Việt khác đồng âm, đồng nghĩa nhưng dị tự vẫn hay được các bản in xưa nay dùng là 粵.

Trong ghi chép của Tư Mã Thiên, con người bản địa nước Nam Việt do Triệu Đà dựng lên là người Việt. Tuy vậy, dường như chữ Việt này được rút từ từ ghép Bách Việt, chứ không dính dáng gì đến nước Việt thời Chiến Quốc trước đó. Bách Việt không phiếm chỉ một dân tộc, một đất nước. Nó gần như là một khái niệm và mang nặng hàm nghĩa văn hóa. Phổ quát nhất và thường được lập đi lập lại là đặc trưng “văn thân, đoạn phát / xăm mình, cắt tóc”. Theo Đông Việt liệt truyện (SK 114)[6] và Việt vương Câu Tiễn thế gia(SK 41)[7], vùng Mân Việt (Phúc Kiến) phía đông bắc Nam Việt là đất nước dưới quyền cai trị của hậu duệ Việt vương Câu Tiễn. Năn 202 TCN nhà Hán phong Vô Chư làm Mân Việt Vương, năm 192 TCN nhà Hán lại cắt một phần phía bắc Mân Việt phong cho quân trưởng Dao làm Việt vương (theo SK 41) hoặc Đông Âu vương (theo SK 114).

Thật khó khăn nếu muốn giải nghĩa Triệu Đà lấy tên Nam Việt với hàm í gì. Xét theo ngữ pháp tiếng Hán ta có Nam Việt = Đất nước phía nam nước Việt. Do đó người Việt ở nước Nam Việt có lẽ là người Bách Việt hơn là người Việt đồng chủng với cư dân Mân Việt? Điều này sẽ bị mấy câu văn vần của Thái sử công ở cuối thiên SK 113 phủ nhận, khi mô tả sự kiện Mân Việt đánh nhau với Nam Việt : Âu Lạc tương công, Nam Việt động dao / (Người, xứ) Âu Lạc đánh nhau, (Nước) Nam Việt xáo động. Hơn nữa, tục cắt tóc xăm mình cũng rất thịnh hành ở nước Việt của Câu Tiễn. Có không khả năng giai cấp lãnh đạo Mân Việt là người Việt (con cháu Câu Tiễn), trong khi đại bộ phận nhân dân là người Lạc?

5. Việt nam

Sau khi diệt Nam Việt, có một cách đoạn nhiều trăm năm cái tên Nam Việt không được cả người Hán lẫn người Âu Lạc cũ dùng tới. Sau đây là biên niên và tên gọi Việt Nam[8] ngày nay theo dòng lịch sử:

Hán: quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam

Tam quốc (thuộc Ngô) trở đi : Giao Châu

Đường : An Nam

Tống : An Nam, như việc phong Đinh Bộ Lĩnh làm An Nam quận vương. Năm 1017 nhà Tống phong Lý Công Uẩn Nam Bình Vương. Năm 1164 nhà Tống lại dùng danh xưng An Nam Quốc Vương cho vua Lý.

Minh: An Nam, năm 1428 Lê Lợi thay Trần Cao và được nhà Minh phong làm An Nam quốc vương, sau đến nhà Mạc được phong An Nam đô thống sứ.

Thanh: An Nam, như đã phong cho vua Quang Trung là An Nam Quốc vương.

Đến năm 1802, lần đầu tiên bắc triều mới chấp nhận để chữ Việt vào quốc danh để thành Việt Nam. Tai sao bắc triều tránh dùng chữ Việt, có những lí do sau:

–          Sợ nhầm lẫn với nước Nam Việt thời Tây Hán hoặc nước Việt thời chiến quốc.

–          Chữ Việt nhắc đến một quốc gia độc lập và tự chủ, trong khi bắc triều luôn muốn áp đặt đô hộ trực tiếp hoặc thống thuộc gián tiếp mảnh đất phương nam này như một thuộc quốc.

–          Chia để trị là một đối sách mà các nước đế quốc ưa dùng. Quá trình Hán hóa các dân tộc thiểu số ở Hoa Nam bắt buộc phải thủ tiêu thuật ngữ Bách Việt. Hán hóa chính là xâm lăng văn hóa, thôn tính văn hóa, bước tiếp theo của vũ lực quân sự.

–          Sau khi nước Việt thời chiến quốc và nước Nam Việt của Triệu Đà đã bị gộp vào Hán tộc, bắc triều gọi các nước phương nam là Nam cũng có thể xác nhận cách nhìn nhận phi Hán trong văn hóa, con người cũng như cương vực của khu vực này.

Ngược lại với bắc triều, các phong trào giành độc lập cũng như các vương triều của cư dân Việt Nam xưa có xu hướng chuộng chữ Việt:

Năm 544 Lý Bí tự xưng Nam Việt đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.

Năm 549 Triệu Quang Phục xưng là Việt Vương.

Năm 939 Ngô Quyền mở nước Đại Việt.

Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh đặt tên nước là Đại Cồ Việt.

Năm 1054 Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt.

Năm 1400 Hồ Quí Ly lấy tên Đại Ngu.

Năm 1427 Lê Lợi dùng lại tên Đại Việt.

Năm 1802 Nguyễn Ánh lấy tên nước là Nam Việt nhưng Thanh triều đổi thành Việt Nam.

Năm 1838 vua Minh Mạng dùng lại tên Đại Nam.

Năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tên nước là Việt Nam.

Trường hợp dân tộc Tráng (Choang): Không riêng gì người Việt Nam, người Tráng ở Quảng Tây cũng có một lịch sử chống bắc thuộc dai dẳng và bền bỉ. Từ thời Đường, các lãnh tụ khởi nghĩa của họ đã xưng vương và lấy những danh xưng có liên quan đến từ Việt và từ Nam như: Trung Việt Vương, Nam Hải Vương, Nam Việt Vương. Ngang thời Lý ở Việt Nam, ‎Nùng Trí Cao xuất thân từ tỉnh Cao Bằng đã xây dựng nước Đại Lịch Quốc, sau lại đổi thành Nam Thiên Quốc với cương giới gần phủ kín hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông [9].

Có hai khuynh hướng chủ đạo thiết lập nền độc lập ở các dân tộc phía nam Hoa Hạ:

  1. Lãnh đạo từ phương bắc xuống (hoặc hậu duệ nhiều đời của họ), hòa đồng với người phương nam, phát triển văn minh nhà nước tập quyền trên cơ sở thống nhất các bộ lạc tự trị, các vùng quyền lực bản xứ: Tổ tiên Câu Tiễn, Triệu Đà, Hậu duệ Câu Tiễn, Sĩ Nhiếp, Lý Bí, Trần Thủ Độ, Hồ Quí Ly…
  2. Người bản xứ đứng lên tự cởi ách đô hộ, xưng vương: Hai Bà Trưng, các tù trưởng người Tráng ở thời Đường, Nùng Trí Cao, Lê Lợi…

Không kể Lê Lợi xây dựng vương triều từ nền móng chính trị sẵn có, ta thấy rõ khuynh hướng thứ nhất phổ biến hơn, thành công hơn. Trừ Hồ Quí Ly muốn ngang hàng bắc triều bằng cách đổi tên nước thành Đại Ngu (với giải thích ông là hậu duệ vua Nghiêu khai quốc Hoa Hạ), Sĩ Nhiếp tìm sự độc lập trong khuôn khổ hẹp, đa phần các lãnh tụ chọn từ Việt cho vương quốc mình. Các lí do hữu quan:

–          Phần nào đó tầng lớp lãnh đạo chính trị phương nam có huyết thống phương bắc, tác động của yếu tố này sẽ khiến họ chủ động thực nghiệm văn hóa chính trị tiến bộ trong khu vực vào quốc gia họ xây dựng trên mảnh đất phương nam.

–          Dư âm nước Việt tiểu bá phương nam của Câu Tiễn thời chiến quốc có thể là biểu trưng tinh thần, khích lệ các lãnh tụ tự tin và nỗ lực bồi đắp độc lập, tự chủ, thâu tóm quyền lực. Trong í nghĩa ấy, nước Việt mới, dân tộc Việt mới vẫn chứa nội dung phi Hán.

–          Một cách tự nhiên, từ Việt dần dần hóa thạch vào văn hóa chính trị phương nam với í nghĩa li khai, bất khuất. Nó mang tính chính thống hiển nhiên trong đối nội và đối ngoại của bất cứ chế độ nào.

6. Kết luận

Tóm lại, Việt越 là một từ cổ, một từ bình thường trong bể từ vựng giữa đời sống văn minh Hoa Hạ. Nó được áp vào tên nước thời chiến quốc với í nghĩa[10]:

  1. Sách Cối Kê kí cho rằng Ư Việt là tên của một hậu duệ vua Hạ Vũ, đến Cối kê lập nên nước Việt để tiện việc thờ tự Hạ Vũ (vốn mất và được chôn cất tại Đại Việt).
  2. Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt.
  3. Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại.
  4. Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác vòng lễ nghĩa Hoa Hạ.

Vì nhiều lí do (một số đã dẫn ở trên) ngày nay Việt Nam đã trở thành tên gọi chính thống của dải đất hình chữ S bên bờ Tây Thái Bình dương. Để được như thế, hai từ Việt và Nam đã trải qua một quá trình vận động bổ xung ngữ nghĩa hàng ngàn năm, với biết bao thăng trầm của lịch sử. Một lần nữa ta thấy dấu ấn của Triệu Đà ở đây, như một người gieo mầm văn minh chính trị tiến bộ phương bắc vào khu vực có đất nước Việt Nam hôm nay. Nếu có thể phân biệt được con người huyết thống (sinh học) và con người văn hóa trong tổng thể con người nói chung của nhân vật lịch sử Triệu Đà, thì rõ ràng không thể gọi ông là con người văn hóa Hán tộc. Đánh đồng con người huyết thống Hán của ông với con người văn hóa, một thứ văn hóa khởi sinh bởi sự tương tác văn hóa Tiền Hán – Tiền Việt mà ông là nhạc trưởng, là việc làm đành tình đoạn lí.

Tôi tin rằng, gần như đã đến lúc người Việt Nam đặt câu hỏi họ là người Việt, người Nam, người Việt Nam hay người Âu Lạc? Văn minh Việt Nam hôm nay đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ về nhận thức quá khứ, với chiều hướng dân trí và kinh tế đi lên, sáng sủa hơn bao giờ hết trong cuộc đời văn hiến đã khá dài của mình. Nó cần định hình và đồng thuận những giá trị mới của lịch sử, trên căn bản hài hòa xưa – nay, trước – sau và thấm đẫm tinh thần khoa học, trung trực. Chắc chắn quá trình vượt thoát, thực thi tinh hoa tự chủ, độc lập truyền thống trong bối cảnh chuyển biến thời cuộc khác trước rất nhiều, sẽ tiềm ẩn nhiều giải pháp hứa hẹn thú vị và lớn lao.

Thảo Điền 3.2007


[1] Xin xem thêm cùng một tác giả: Cổ sử Việt Nam, một cách tiếp cận vấn đề – NXB Lao Động 2007.

[2] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm

[3] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_043.htm

[4] Nếu Âu là Mẹ, thì sông Âu nơi người Âu Việt sống có thể hiểu là Sông mẹ, sông lớn, tương tự Mêkong.

[5] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_113.htm

[6] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_114.htm

[7] http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm

[8] Theo Việt Nam niên biểu, Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim. Bản điện tử của viethoc.com.

[9] Đoạn này tham khảo Journal of Southeast Asian Studies, Vol. XVIII, No. 2, September 1987. Người Choang các dân tộc ít người, vùng biên giới Việt – Hoa trong triều đại nhà Tống. JEFFREY G.BARLOW. Bản dịch của Ngô Bắc.

[10] Có tham khảo Văn Minh Lạc Việt – Nguyễn Duy Hinh – NXB VHTT 2004.

Tính tất yếu của dân chủ

9 Comments

Xin giới thiệu bạn đọc bài viết thứ ba, trong loạt bài tìm hiểu về dân chủ của tôi. Tôi đã từng khảo cứu cổ sử để viết một quyển sách nhỏ về Hai Bà Trưng, loạt bài dân chủ này không nằm ngoài lý do văn học từ đầu của sự viết nơi tôi. Bài thứ nhất ở đây (đăng talawas nhưng hiện nay không truy cập được, xin tham khảo tại blog của nhà báo Trương Duy Nhất), bài thứ hai vừa đăng ở BBC.

Bài dưới đây x-café đăng nhưng không có chú thích. Bạn đọc có thể hiểu đây là bản gốc.

———————–

Tính tất yếu của dân chủ

Trương Thái Du

Theo Sử Ký, năm ba mươi lăm tuổi, Khổng Tử nói với Tề Cảnh Công khi được hỏi làm chính trị phải như thế nào: “Vua phải theo đúng đạo làm vua, tôi phải theo đúng đạo làm tôi, cha phải theo đúng đạo làm cha, con phải theo đúng đạo làm con”. Đây chính là nền tảng của Thuyết chính danh, xương sống của Nho Giáo nguyên thủy: “Dùng một điều để quán triệt tất cả” , “Cái danh mà không chính thì lời nói không đúng với sự thực, lời nói không đúng với sự thực thì việc không thành”. Cuối đời, Khổng Tử đúc kết bốn điều nên: “Văn học, đức hạnh, trung thành, tín nghĩa” và bốn điều tránh: “định kiến/thành kiến, phiến diện/một mặt, cố chấp, thiên vị/vị ngã”.

Ngay từ đầu TK 20, luận văn tiến sĩ của Hồ Thích “The development of the logical method in Ancient China” đã chỉ rõ mối tương đồng đáng ngạc nhiên về thời đại và nội hàm giữa Thuyết chính danh của Khổng Tử (551 – 479 TCN) và Thuyết khái niệm của Socrates (470 – 399 TCN).

Lý thuyết của Khổng Tử nảy nở trên nền tảng văn hóa đa trung tâm, quyền lực phi tập trung, lối sống quần cư đô thị đề cao thương mại. Đó là thời đại Chiến quốc đa nguyên, trăm hoa đua nở, nhà nhà tranh tiếng. Áp dụng thành quả rực rỡ của triết học Tiên Tần, Tần Thủy Hoàng nhanh chóng thống nhất Trung Nguyên. Khi quyền lực đã được tập trung vào một mối, sự phản động bèn ra tay: Các dinh thự vương tướng, quyền quí tại sáu nước bị đốt phá hoặc tháo gỡ đem về nước Tần. Tầng lớp trung lưu, thượng lưu thành thị bị bứng khỏi gốc, di dân hàng loạt hoặc bắt lính, biến họ trở thành nông dân tại những vùng hoang địa hay chiến binh trong các đoàn quân đế quốc. Sách vở bị đốt, tư tưởng phi chính thống bị tiêu diệt, sự bình đẳng trước tri thức của nhân dân bị xóa bỏ, từ đó trở đi họ được gọi một cách khinh bỉ là “đầu đen”. Những ông thầy uyên bác bị chôn sống, quan cai trị từng khu vực kiêm quản luôn nghĩa vụ giáo thụ. “Bọn” thương gia nhiều công trạng bị loại thải dưới đao kiếm, điển hình là Lã Bất Vi.

Đến thời Hán, Nho Giáo được kẻ cầm quyền hà hơi tiếp sức. Nó sống lại trong một hình hài méo mó, trở thành tên lính xung kích khư khư bảo vệ lợi ích bá vương. Ngoài xã hội, nó đánh mất ý nghĩa triết học để trở thành hệ nhân sinh thuần túy đạo đức. Thế giới Á Đông tiêu phí hơn hai ngàn năm trong bóng tối bất công, cường quyền nô dịch, nhân phẩm bị chà đạp.

Phương Tây hậu Socrates thậm chí còn tệ hại hơn: Những cuộc chiến liên miên giữa các thành – bang khiến cho đô thị cổ đại cứ mãi luân hồi xây – phá trên biển máu. Nhiều bạo chúa chuyên quyền nhìn thấy sức mạnh của họ bị uy hiếp trong các con phố thương mại sầm uất. Đó phải chăng là lí do Nero đốt cháy La Mã để lấy thi hứng trong tiếng đàn Lyre? Khi La Mã suy tàn, nhà thờ Thiên chúa giáo đã dẫn nền văn minh Hy – La rực rỡ đi vào địa ngục trung cổ. Con người phương Tây cũng bị đày đọa trong chiến tranh, giáo điều và cuồng tín tròm trèm hai ngàn năm.

Dân chủ với ý nghĩa “quyền lực của nhân dân” ở thành Athena hay “dân vi quí” thời Chiến quốc nói chung là một. Nó là sản phẩm của văn minh đô thị, kinh tế thương nghiệp. Người phương Tây không giữ bản quyền dân chủ, sự rao giảng đây đó chẳng qua chỉ là thói huênh hoang ngã tâm, tự cao tự đại hoặc chứa đựng một âm mưu mà thôi. Nước Mỹ đã không thành công ở Iraq hay Afghanistan là điều dễ hiểu.

***

Ở Việt Nam, tranh cãi về dân chủ hay không dân chủ nhiều khi bỏ qua yếu tố văn minh đô thị. Nó thu nhỏ trong sự xung đột giữa ý chí thị dân và sức ỳ của nền văn hóa nông nghiệp thượng phong. Ý chí thị dân của những Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường… đã va chạm quyết liệt với lực lượng bảo thủ và hàng loạt cây bút “xả thân cứu mình[1]” như Nguyễn Đổng Chi, “bồi bút” như Nguyễn Công Hoan, hoặc những “con chó Nhật” sủa theo lệnh chủ[2].

Phan Khôi và Nguyễn Mạnh Tường là điển hình cho hai chi phái thị dân Việt Nam sau 1945. Bằng vốn Hán học truyền thống trong một gia đình quan chức phong kiến cao cấp, Phan Khôi tiếp cận và “học mót[3]” Lương Khải Siêu, Hồ Thích từ sách báo Trung văn. Trong khi đó Nguyễn Mạnh Tường tiếp thu tư tưởng trực tiếp từ phương Tây khi còn rất trẻ.

Không khí hoang mang trong truyện ngắn “Ông Năm Chuột” của Phan Khôi thể hiện sự hoang mang nhưng vẫn cố dè bỉu của nền văn minh lúa nước trọng nông ức thương đối với những thị dân. Nhân vật Năm Chuột ra đời giữa làng xóm, trưởng thành nơi đô hội, là một thị dân thông minh, khéo tay nhưng lươn lẹo và láu cá. Những tưởng Năm Chuột vô học, Phan Khôi bóc mở dần nhân vật và cho thấy y có sự tinh lọc tri thức thực dụng, không câu thúc và nô lệ sách vở. Tác giả bắt người đọc phải chọn lựa giữa “ông” và “thằng” khi nhắc đến Năm Chuột. Trí thức nông dân Việt Nam luôn đồng hóa nghèo khó với đức hạnh, cho nên xã hội dẫm chân tại chỗ là hiển nhiên. Thói đập bàn quát tháo của những kẻ như ông Tú già (chắc chắn không giàu) đã bị Phan Khôi ngầm lên án là gàn dở và lỗi thời.

Nói vụ án Nhân văn là một phong trào dân chủ không sai, song thiếu đầy đủ. Phe dân chủ dường như đã tự bịt mắt để vào trận quyết đấu sống còn cho một cái bánh dân chủ mà 90% người dân bắc Việt đói rách khi ấy chưa thể tiêu hóa nó. Thiếu thực nghiệm là căn nguyên mù lòa. Chủ nghĩa thực nghiệm mà Hồ Thích cổ súy, vận dụng linh hoạt vào khoa học nhân văn Trung Quốc, sau này đã đẻ ra chính sách mở cửa mang tên “mèo trắng mèo đen” của Đặng Tiểu Bình. Phải chăng đó là lý do cuối cùng Nguyễn Mạnh Tường cũng phải đối diện sự thật, thốt lên những dòng ai oán khi quyển hồi ký đi vào phần kết: “Cái bí mật của dân chủ là nằm ở sự vận hành của nó, trong việc phán đoán những quyền tự nhiên và những tự do của con người, vì thế nó đòi hỏi phải có một sự hiểu biết tối thiểu về quyền công cộng và luật pháp quốc tế. Những điều kiện của dân chủ là có quan hệ đến kinh tế của nước liên hệ mà sự thịnh vượng, dù đã bị giới hạn, là rất cần thiết cho sự thành công của nó, cho niềm vui hưởng những quyền tự do và những quyền của con người”.

Mâu thuẫn của khát khao dân chủ và hiện trạng nửa nông thôn của xã hội Việt Nam hiện nay có thể hình dung như mâu thuẫn giữa Lão Tử và Khổng Tử xưa kia vậy. Dù các thầy rất tôn trọng nhau, tuy nhiên Sử Ký ghi nhận: “Người theo thuyết của Lão Tử thì bài bác Nho học, theo Nho học lại bài bác thuyết của Lão Tử”. May mà thời ấy đa nguyên, không có học phiệt hay những trí thức lưu manh, tự do vô chính phủ. Vô vi mà dân tự cảm hóa được không? Thanh tĩnh mà quan tự quay về đường phải được không?

Khổng Tử là vĩ nhân tiên phong của Á Đông mở đường cho bình đẳng tri thức, khuyến khích mọi người chủ động tiếp cận với tri thức. Cuộc cách mạng internet hôm nay đang nở hoa, nhưng thử hỏi bao nhiêu phần trăm dân chúng Việt Nam đã sẵn sàng ngồi xuống một chiếc máy vi tính nối mạng để tìm hiểu dân chủ là gì?

Những thị dân đang tiếp cận dân chủ cho chính mình đã đủ chưa? Hãy tiếp cận giúp những người khác và tránh xa phương pháp báng bổ mở màn, đổ lỗi cho thể chế. Trên một nền móng yếu như bãi bồi, ruộng dâu, ngôi nhà bê tông liệu có hợp thời, liệu có chắc chắn không ngả ngiêng, thậm chí sập đổ, chôn vùi những con người hãnh tiến hơn thời đại ngụ cư trong ấy. Đó có lẽ là lý do những người đã và đang tự xưng hoạt động dân chủ chưa tìm được tiếng nói ủng hộ lớn lao từ xã hội, nhất là lớp bình dân.

Nhại một kiểu nói văn hoa của quan chức, tôi tự hỏi có thể đi tắt, đón đầu dân chủ hay không? Chả có gì là không thể! Nhưng nó đòi hỏi phải thoát ly dân tộc tính. Khi nào? Khi trên những diễn đàn hướng đến tri thức của những trí thức và cả trên truyền thông chính thống, không còn những cây bút tự khoe sự yếu đuối của mình bằng võ chửi, bằng con bài tẩy chụp mũ đầy cảm tính, ngụy biện, mị dân và lôi kéo bầy đàn.

Khi chưa có một xã hội với những đầu não đô thị trưởng thành, thì con đường dân chủ Việt Nam sẽ còn vấp phải nhiều phiên tòa như Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung đang chờ. Anh chơi trò kết án rồi toan thay thế một thể chế, thì chính nó sẽ lập tức kết án anh một cách tàn nhẫn nhất, sau song sắt. Đó là qui luật. Nên chăng hãy đặt trước thể chế những tiên đề chính danh, để thảo luận một cách thành thật và cầu thị, giả như: Tính tất yếu của dân chủ ở Việt Nam là do tính tất yếu của văn minh đô thị sẽ thay thế văn minh nông nghiệp.

Thạch Viên, Nhơn Trạch

12.2009


[1] Nhằm “treo cổ” sự nghiệp của Ngự sử văn đàn Phan Khôi, Nguyễn Đổng Chi được giao nhiệm vụ đấu tố các trước tác của họ Phan. Ông viết bài: “Quan điểm phản động, phản khoa học của Phan Khôi phải chăng là học mót của Hồ Thích?”, In trong Tập san Nghiên cứu văn sử địa, Hà Nội, số 41 (tháng 6/1958), tr. 7-24, Bản điện tử do talawas thực hiện (http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=13227&rb=0301). Như lời trần thuật của chính con trai ông (Nguyễn Huệ Chi), bài viết gây “choáng”, “vì những lời lẽ ông ấy viết rất nặng” [http://thuykhue.free.fr/tk05/trochuyen.html]. Tài liệu này cũng gián tiếp ghi nhận nỗi ân hận muộn mằn của Nguyễn Đổng Chi. Bài viết trở thành một vết nhơ khó gột trong cuộc đời học thuật của Nguyễn Đổng Chi. Tôi không thể bao biện cho tác giả, ngoài việc tạm xem ông đã viết nó để tự bảo vệ mình, trước “bề trên”. Cũng nên để ý đến trường hợp Hồ Tư Đỗ (con trai thứ của Hồ Thích kẹt ở Đại lục), cũng từng kết án cha mình là “kẻ thù của nhân dân” với cùng luận điệu như Nguyễn Đổng Chi dành cho Phan Khôi.

[2] Trong hồi ký “Kẻ bị mất phép thông công”, Nguyễn Mạnh Tường gọi một sinh viên đấu tố ông như vậy.

[3] Từ Nguyễn Đổng Chi đã dùng.

Con đường dân chủ Việt Nam

2 Comments

Phải khẳng định mô hình dân chủ thể hiện tối thiểu ở hình thức phổ thông đầu phiếu là tất yếu sẽ diễn ra tại Việt Nam nói riêng và phần lớn lãnh thổ Á Đông nói chung. Bài viết này thử xoay quanh mấy câu hỏi “Khi nào?”, “Thế nào?” và “Tại sao?”. Tôi lấy cảm hứng từ Đặng Tiểu Bình: “Thế kỷ sau, Trung Quốc qua nửa thế kỷ nữa mới có thể thực hiện phổ thông đầu phiếu [1]”.

Tác giả chia sẻ quan điểm dân chủ của Đặng Tiểu Bình

Các nhà “dân chủ” Việt Nam thường dẫn dắt khái niệm dân chủ về khởi nguồn La Mã cổ đại để ngầm xem nó như là cốt túy thường hằng của văn minh phương Tây. Theo Huntington [2], vào năm 1942 thế giới chỉ có 12 thể chế dân chủ. Con đường dân chủ ở nhiều quốc gia cũng không hề là con đường một chiều, mà có tiến có lùi và không ngừng hoàn thiện. Chẳng hạn đến năm 1944 nữ giới ở Pháp mới có quyền bầu cử và mãi đến thập niên 1960, dưới ngọn cờ của Martin Luther King người da màu mới giành được quyền bình đẳng tương đối chấp nhận được trong xã hội Mỹ. Cho rằng các thể chế Âu – Mỹ là khuôn mẫu nên hướng đến, Huntington gọi chung các nước không có phổ thông đầu phiếu hoặc phổ thông đầu phiếu thiếu công bằng là Nondemocratic regimes (phi dân chủ) hoặc Authoritarian Regimes (chuyên chế).

Ghi nhận sự dân chủ hóa tại 35 quốc gia trong giai đoạn 1974 – 1990, Huntington gọi đấy là làn sóng dân chủ hóa thứ ba của nhân loại. Ông chia thành ba nhóm: Độc tài một đảng (11 nước, có Đài Loan, Liên Xô), Độc tài cá nhân (7 nước, có Ấn Độ, Philippine), Độc tài quân sự (16 nước, có Hàn Quốc, Pakistan) và Độc tài dân tộc (1 nước là Nam Phi). Ông cũng chú thích Đài Loan không dân chủ cho tới năm 1990, Nigeria và Sudan thì đảo ngược từ dân chủ về độc tài.

***

Trên cơ sở các khái niệm Huntington đưa ra, ta thấy rằng từ giữa thế kỷ 20 đến nay, tại Trung Quốc và Việt Nam luôn tồn tại chế độ một đảng. Tuy vậy, đi sâu vào thực chất, lại thấy có sự chuyển động nội tại không thể phủ nhận: Chế độ một đảng với nhiệm kỳ lãnh tụ suốt đời đã được cải tiến thành chế độ một đảng, lãnh tụ tối đa hai nhiệm kỳ, diễn ra tại Trung Quốc năm 1978 và Việt Nam 1986. Câu hỏi ở đây là Trung Quốc và Việt Nam có hoàn toàn nằm ngoài trào lưu dân chủ hóa thứ ba kia hay không? Biến cố Thiên An Môn 1989 là phong trào dân chủ dân túy hay chỉ là bi kịch chính trị đẫm máu, nơi Triệu Tử Dương đấu đá và giành quyền lực với Lý Bằng, gián tiếp thách thức vai trò nguyên lão của Đặng Tiểu Bình?

Afghanistan đã có bỏ phiếu tự do nhưng nhiều khiếm khuyết

Trong “cẩm nang” dân chủ nặng ký của mình, Huntington đưa ra các hướng dẫn dân chủ hóa rất chi tiết, từ hàng loạt phân tích và minh chứng khá kỹ càng. Tuy vậy, cũng như Marx, Lenin và Stalin, ông chưa chú trọng nghiên cứu ảnh hưởng của hình thái xã hội Á Đông đặc thù trong luận thuyết của mình. Đành rằng tài liệu này Huntington hoàn thành năm 1991, tôi vẫn thấy việc ông đặt trường hợp Thái Lan ra ngoài sự quan tâm của mình, là một điều đáng tiếc. Thật vậy, mâu thuẫn giữa thị dân và nông dân ở nước Thái đã, đang và sẽ trì hoãn hành trình dân chủ nơi ấy. Nó đặt công thức dân chủ Âu – Mỹ vào tình trạng hài hước: Kẻ nắm đa số phiếu trong một cuộc bầu cử phổ thông đã bị thải loại. Đó là chưa kể những gì diễn ra sau khi Huntington qua đời, mới đây thôi, tại Afghanistan: Các địa điểm bỏ phiếu luôn là điểm nóng, máu đổ đầu rơi. Phía sau cánh gà sân khấu, các đảng phái ký kết những thỏa hiệp đầy ám muội.

Các yếu tố ảnh hưởng đến vận động dân chủ dễ thấy nhất là kinh tế kiệt quệ, xã hội băng hoại, lãnh tụ qua đời. Chúng ta nhìn rõ điều này ở Singapore. Sự ổn định của nhà nước một đảng, dù đã được thu nhỏ chỉ trong một đô thị, cũng nên lấy làm tham chiếu. Theo tôi, hiện tượng mê tín thần quyền và lãnh tụ của xã hội châu Á nói chung cũng cần được tham khảo. Chẳng hạn gia tộc Nehru, thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, đã củng cố nền độc tài của mình bằng họ của thánh Gandhi. Sự mị dân giúp họ giữ vững quyền lực liên tục mấy đời. Công thức nghị sĩ ông truyền, cha tiếp, con nối (dù có thông qua bầu cử) tại Nhật nhiều khi đã được các cử tri tỉnh táo mô tả là “ngán đến tận cổ”. Hiện tượng bình dân Trung Quốc ngưỡng mộ họ Mao phải được nhìn nhận trong bức tranh chung của cả một lục địa.

Giai đoạn thể chế một đảng, lãnh tụ suốt đời ở Trung Quốc và Việt Nam lần lượt là 29 năm (1949 – 1978) và 41 năm (1945 – 1986). Các con số này nói chung chỉ mang tính tượng trưng, chọn mốc khác chúng ta sẽ con số khác. Song, chúng đều khiến tôi hình dung về một chặng đường dài mang tính chu trình, không ngừng tự tiến hóa và va đập với các xu hướng khu vực lẫn toàn cầu.

Đa nguyên chính trị có cần nền tảng đa nguyên của xã hội không? Xã hội Việt Nam chưa bao giờ thân thiện với phản biện, các quan điểm khác nhau ít khi có cơ hội đứng bình đẳng cạnh nhau, bổ khuyết cho nhau.

Nền dân chủ Âu – Mỹ có bền vững không? Nhân dân Âu – Mỹ có khát khao thay đổi hay không? Chỉ nhìn vào cuộc bầu cử tổng thống Mỹ trong thoái trào kinh tế 2008 là rõ. Họ đã mất bao nhiêu năm để đạt được thành quả như hôm nay?

Mới đây trả lời phỏng vấn RFA luật sư Trần Lâm nêu ra ý tưởng lobby để tách đảng cầm quyền tại Việt Nam làm hai. Ông nói: “Làm hai thì nó có cái lợi là có hai Đảng, ba Đảng thì nó có đấu tranh với nhau, nó có phản biện nó có công khai”.

Thực ra ý tưởng này không mới và về bản chất, do yếu tố căn cước vùng miền rất nặng nề trong cơ cấu chính trị, đảng cầm quyền tại Việt Nam có thể nói là đã bao gồm ít nhất ba phân nhánh (bắc – trung – nam). Chúng ta lại phải chờ? Chờ cho sự phát triển và đồng hóa tự nhiên xóa nhòa căn cước vùng miền? Sử gia Keith Taylor đã có lý khi cho rằng ở khía cạnh nào đó, từ ngày khai sinh, lịch sử Việt Nam là những cuộc tranh chấp vùng miền liên miên.

Tôi cảm thấy thú vị với khái niệm vận động dân chủ hành lang (lobby dân chủ). Nó loại bỏ được nhóm người có âm mưu đầu cơ chính trị, những cá nhân thích mơ tưởng quyền lực (chức vụ bộ trưởng, thủ tướng chẳng hạn) hơn là trăn trở hoàn toàn với vận mệnh quốc gia, ấp ủ tình yêu nước thuần khiết. Họ chống độc tài và cũng chống cả dân chủ, như chính Huntington đã chỉ ra nhan nhản tại các phong trào dân chủ trên thế giới: “They used the rhetoric of democracy in their efforts to replace the existing authoritarian regime with one of their own[3]”.

Đa nguyên chính trị có cần nền tảng đa nguyên của xã hội không? Xã hội Việt Nam chưa bao giờ thân thiện với phản biện, các quan điểm khác nhau ít khi có cơ hội đứng bình đẳng cạnh nhau, bổ khuyết cho nhau. Lấy ví dụ cộng đồng Việt kiều tại Mỹ, dường như hiện nay chỉ có một quan điểm thống trị, bất cứ cái nhìn cá nhân và khác biệt nào cũng bị đưa ra công luận đấu tố dữ dội. Brian Đoàn, Nguyễn Hữu Liêm là những ví dụ nóng hổi. Khi những kẻ có cái đầu rực lửa dễ dàng bước lên làm chủ diễn đàn, tấn công vào cảm tính của xã hội, đó là lúc con người đang bị dẫn vào chiếc rọ độc tài một cách tự nguyện và hả hê hạnh phúc!

Con đường dân chủ văn hóa, đa nguyên tư tưởng chỉ có ngòi bút là vũ khí. Nó tụng ca thanh tẩy và cho rằng thanh tẩy bao giờ cũng nhân văn hơn phủ định, đạp đổ.

Trong một tranh luận gần đây, tôi cho rằng xã hội Thái Lan đang khá ổn định dấn bước trên con đường dân chủ của mình. Có năm yếu tố củng cố sự ổn định ấy: Chủng tộc (cơ bản khối dân tộc đang nắm vận mệnh nước Thái là đồng chủng), Tôn giáo (đạo phật nhân ái là quốc giáo của Thái Lan), Vương quyền (người Thái rất tôn trọng hoàng gia), Chia rẽ lịch sử và căn cước vùng miền (Thái Lan không tồn tại căn cước vùng miền sâu đậm như Việt Nam, họ có một lịch sử chung vì thời cận đại họ không bị chia cắt, bị ngoại bang đô hộ). Chiếu xét các yếu tố ấy vào hiện tình Việt Nam, khả năng một cuộc nội chiến nồi da xáo thịt tiếp bước “cách mạng dân chủ đẻ non” là không nhỏ.

***

Tiếp cận nội hàm “ở Việt Nam không có dân chủ” hay cho rằng nó đang trên hành trình đi đến dân chủ, sẽ dẫn chúng ta đến hai cái nhìn trái ngược, song hết sức cần thiết. Con đường dân chủ văn hóa, đa nguyên tư tưởng chỉ có ngòi bút là vũ khí. Nó tụng ca thanh tẩy và cho rằng thanh tẩy bao giờ cũng nhân văn hơn phủ định, đạp đổ. Người hoạt động dân chủ kiểu này vô nhiễm trước quyền lực và quyền lợi, họ thân thiện hóa những đối lập và tránh được đối đầu không cần thiết. Chính thái độ ấy sẽ điều chỉnh công thức dân chủ Âu – Mỹ, khi áp dụng vào Á Đông. Nó dễ dàng nhận ra những yếu tố phản dân chủ và cạm bẫy, trong một qui trình dân chủ kiểu mẫu.


[1] Bìa 4, Đại dự đoán Trung Quốc thế kỷ 21, tác giả Phùng Lâm, Nguyễn Văn Mậu dịch, NXB VH-TT 1999.

[2] Samuel P. Huntington, “How Countries Democratize”, Political Science Quarterly, Vol. 124, Number 1, 2009.

[3] Tạm dịch: Họ dùng cái hoa mỹ của dân chủ trong nỗ lực thay thế chế độ độc tài hiện hữu bằng chế độ (độc tài) của riêng họ.