Người dịch: Trương Thái Du
Nguyên văn: Chinese Text Project 南越列傳
Ghi chú: Thương Ngô nằm phía tây bắc Phiên Ngu, trị sở thời Tây Hán là Quảng Tín, hiện nay thuộc thành phố Ngô Châu, Quảng Tây. Quế Lâm ở về phía tây bắc Thương Ngô, thủ phủ là thành phố Quế Lâm hiện tại. Phía bắc Nam Việt được nhà Hán định vị ở Trường Sa, Hồ Nam. Phía đông định vị trong Đông Việt liệt truyện là Yết Dương. Chính nội dung trong bản dịch này cộng với nhiều căn cứ khác tại Sử Ký cũng như Hán thư, chúng tôi cho rằng Âu Lạc là tên bản địa của nước Nam Việt.
Ngữ cảnh Triệu Đà nói tây Âu Lạc là nước trần truồng và sự kiện nguyên tả tướng Âu Lạc chém đầu Tây Vu vương đề cập trong Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu, cho chúng ta định vị phía tây Phiên Ngu. Tây Vu có khả năng là Tây Âu, cũng có thể nó không phải địa danh, chỉ mang nghĩa vùng đất phía tây mà thôi. Quận Hợp Phố xuất hiện đúng phía tây Phiên Ngu, trị sở Từ Văn nay là huyện Hải Khang, Quảng Đông (thuộc bán đảo Lôi Châu, cách đảo Hải Nam một eo biển dài 68km, chỗ hẹp nhất 18km).
Ước tính diện tích Nam Việt vào khoảng 250.000 km2, Triệu Đà áp dụng chế độ vương hầu tự trị với Giám quan giám sát, không có biên giới rõ ràng, trừ khu vực giáp nhà Hán ở Trường Sa được xây dựng quan ải, dân số 400 ngàn người. Theo Sử Ký và Hán Thư, Nam Việt không liên quan đến châu thổ sông Hồng.
————————————–
Nam Việt vương vốn là một quân nhân cấp huyện, bậc Úy, tên Đà, người Chân Định, họ Triệu. Thời Tần sau khi thâu tóm cả thiên hạ, chiếm Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng, rồi đày dời dân phía bắc xuống, hòa trộn vào với người Việt khắp nơi được mười ba năm. Nhà Tần dùng Đà làm quan đứng đầu huyện Long Xuyên, quận Nam Hải. Đến thời Nhị thế, Nam Hải quận úy Nhâm Hiêu bệnh sắp chết, gọi huyện lệnh Long Xuyên Triệu Đà đến nói rằng: “Nghe nói bọn Trần Thắng làm loạn, vua Tần vô đạo, thiên hạ khổ ải, Hạng Vũ, Lưu Quý, Trần Thắng, Ngô Quảng cùng tất cả châu quận hưng binh tụ dân, đánh nhau tranh thiên hạ, Trung Quốc nhiễu loạn, chưa biết khi nào yên, hào kiệt phản Tần nổi dậy. Nam Hải xa xôi hẻo lánh, ta sợ quân cướp xâm chiếm đất này, ta muốn hưng binh cắt đứt con đường mới mở xuống đây, tự xếp đặt, đợi chư hầu có biến, lại gặp lúc bệnh nặng. Vả chăng Phiên Ngu nhờ vào núi hiểm, biển nam ngăn cách, đông tây vài ngàn dặm, còn có người Trung Quốc đỡ đần, ấy là thế có thể làm chúa của một châu tách biệt, khả dĩ lập quốc. Các trưởng lại trong quận không ai có thể chia sẻ ý tưởng của tôi, đó là lý do tôi mời ông đến mà khuyên nhủ vậy.” Lập tức thảo thư cho Đà, làm quận úy Nam Hải. Hiêu chết, Đà liền viết hịch bảo các cửa ải Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê rằng: “Quân cướp sắp đến, khẩn trương chặn đường và tập hợp lính tráng tự phòng vệ.” Đà dần dần dùng luật pháp loại bỏ các trưởng quan được trí đặt bởi nhà Tần, đem người trong vây cánh của mình thay thế. Sau khi Tần bị diệt, Đà liền thôn tính Quế Lâm, Tượng quận, tự lập làm Nam Việt Vũ vương. Cao đế bình định xong thiên hạ, thấy người Trung Quốc vừa trải qua lao khổ, nên tha cho Đà, chưa đánh dẹp. Năm thứ 11 nhà Hán (196 BC), sai Lục Giả tấn phong Đà làm Nam Việt vương, cấp phẫu phù[1] thông sứ, yêu cầu Đà hòa hợp với những bộ tộc Bách Việt, không làm gì xáo trộn ở biên giới phía nam, định ranh giới Nam Việt và nhà Hán là ở khu vực Trường Sa.
Thời Cao Hậu nhiếp chính, có quan chức xin cấm cửa ải Nam Việt mua đồ sắt Trung Nguyên. Đà nói: “Cao đế phong lập ta làm Nam Việt vương, Cao hậu ngày nay nghe bọn sàm quan, phân biệt Man Di, ngăn cấm trao đổi dụng cụ kim khí, hẳn đây là kế của Trường Sa vương, muốn dựa vào Trung Nguyên, mưu đồ đánh Nam Việt để nuốt vương chức của ta, lập công nghiệp cho mình.” Đà bèn tự dùng tôn hiệu Nam Việt Vũ đế, phát binh đến các ấp biên giới Trường Sa, đánh bại mấy huyện rồi lui quân về. Cao hậu sai tướng quân Long lư hầu Chu Táo tấn công Đà, gặp khí hậu nóng nực ẩm thấp, quan quân bị bệnh dịch lớn hoành hành, không thể vượt qua dãy núi Ngũ Lĩnh. Sau hơn một năm, Cao hậu mất (năm 180 BC), liền bãi binh. Đà nhân đó dùng cường binh uy hiếp biên giới, dùng của cải mua chuộc hối lộ quí tộc người Di ở Mân Việt và tây Âu Lạc, khiến họ phụ thuộc, nhờ thế đất đai Nam Việt từ đông sang tây hơn vạn dặm. Lại ngồi xe mui vàng, trên xe cắm cờ tả đạo, mệnh lệnh đưa ra gọi là chế và chiếu như thiên tử, tự xem ngang hàng với Trung Quốc.
Đến năm thứ nhất Hiếu văn đế (179 BC), vừa an định thiên hạ xong, vua cho sứ giả bố cáo với chư hầu và tứ Di rằng thiên tử từ đất Đại về kinh đô lên ngôi, sẽ dùng đức để cai trị muôn dân. Mồ mả cha mẹ Đà ở Chân Định được vua thiết lập làng thôn trông coi chăm sóc, hằng năm cúng tế đầy đủ. Lại gọi anh em họ của Đà đến, cho làm quan và đối đãi rất hậu. Văn đế bảo bọn Trần Bình tiến cử người có khả năng đi sứ Nam Việt, Bình nói có Lục Giả người Hảo Chỉ, từ thời tiên đế đã quen đi sứ Nam Việt. Bèn gọi Giả vào triều cho chức Thái trung đại phu để làm sứ giả. Lục Giả đến Nam Việt, Việt vương hoảng sợ, viết thư tạ tội rằng: “Thần là Đà, đại trưởng lão xứ Man Di, trước đây Cao hậu ngăn trở chia cách Nam Việt, trộm ngờ bởi Trường Sa vương là bầy tôi sàm nịnh, lại nghe người ở xa tới bảo Cao Hậu đã giết hết gia tộc nhà Đà, đào đốt mồ mả tiền nhân, vì cớ ấy tôi quên mất tôn ti trật tự, xâm phạm biên giới Trường Sa. Vả lại phương nam này ẩm thấp, giữa chốn Man Di, phía đông là Mân Việt chỉ có ngàn dân vẫn xưng vương, phía tây Âu Lạc là nước trần truồng cũng xưng vương. Lão thần lấy bậy đế hiệu, lấy thế làm vui, đâu dám để vua trời nghe được.” Bèn cúi đầu sát đất lạy tạ, nguyện mãi mãi là phiên thần, có nghĩa vụ cống nạp. Bèn hạ lệnh xuống người trong nước: “Ta nghe nói hai anh hùng không thể cùng tồn tại, hai người đức hạnh và tài năng không bao giờ ở cùng thời đại. Hoàng đế nhà Hán là thiên tử hiền nhân. Từ nay trở về sau bỏ đế hiệu, xe mui vàng và cờ tả đạo.” Lục Giả trở về báo lại, Hiếu Văn đế rất vui lòng. Đến thời Hiếu Cảnh đế (157 BC), Đà vẫn xưng thần, sai người vào triều thỉnh chầu. Tuy vậy ở Nam Việt vẫn trộm dùng đế hiệu như cũ, chỉ khi đi sứ thiên tử mới xưng vương và nhận triều mệnh như chư hầu. Đến năm Kiến nguyên thứ tư (137 BC), Triệu Đà mất.
Cháu nội Triệu Đà tên là Hồ nối ngôi Nam Việt vương. Lúc này (135 BC) Mân Việt vương là Dĩnh hưng binh đánh phá các ấp biên giới của Nam Việt, Hồ sai người dâng thư đến Hán triều: “Hai nước Việt đều là phiên thần nhà Hán, Mân Việt bỗng tùy tiện đem quân xâm lấn, thần không dám đưa người ra chống lại, xin nhờ thiên tử xử lý.” Thiên tử khen Nam Việt biết giữ phép tắc, tuân thủ thỏa ước với Hán triều, liền phát quân, sai hai tướng đi thảo phạt Mân Việt. Binh lính chưa đến Du lĩnh, em Mân Việt vương là Dư Thiện giết Dĩnh để đầu hàng, vì vậy bãi binh.
Thiên tử sai Trang Trợ đến báo cho Nam Việt vương biết, Hồ cúi đầu nói: “Thiên tử vì thần mà hưng binh thảo phạt Mân Việt, thần có chết cũng không báo đáp được ân đức này.” Rồi sai Thái tử Anh Tề vào kinh đô Hán làm túc vệ triều đình. Hồ nói với Trợ: “Nước vừa bị cướp phá, sứ giả đi trước, Hồ sẽ ngày đêm thu xếp hành lý để vào bệ kiến thiên tử.” Trợ đi rồi, đại thần can gián: “Hán đem quân giết Dĩnh, cũng là đe dọa Nam Việt. Hơn nữa tiên vương từng dặn, đối với thiên tử đừng thất lễ là được, chớ nên nghe lời đường mật mà vào triều. Vào rồi có khi không về được, đó là cái thế mất nước đấy.” Hồ bèn cáo bệnh, rốt cuộc không vào triều kiến. Sau đó khoảng hơn 10 năm, Hồ bị bệnh nặng thật sự, thái tử Anh Tề xin về nước. Hồ mất, thụy hiệu là Văn vương.

Long Kim Ấn (ấn rồng bằng vàng đúc) phát lộ tại lăng mộ Triệu Văn Vương ở Quảng Châu năm 1983. Chữ trên ấn: Văn đế hành tỉ . Triệu Hồ còn có tự danh ghi trong mộ là Mạt (昧)
Anh Tề lập triều đại mới, lập tức giấu ấn Vũ đế trước kia đi[2]. Thời Anh Tề làm túc vệ ở Trường An, đã lấy một nữ nhân Hàm Đan họ Cù, sinh con trai tên Hưng. Sau khi lên ngôi, lại gửi thư lên Hán triều xin lập Cù thị làm vương hậu, Hưng là con nối dõi. Nhà Hán mấy lần cho sứ giả khuyên nhủ Anh Tề, Anh Tề chuộng lạc thú, tùy tiện giết người, buông thả phóng túng, sợ vào triều phải tuân thủ luật pháp nhà Hán, ngang hàng các chư hầu nội địa, nên quyết cáo bệnh, không đi. Chỉ sai con thứ là Công vào làm túc vệ. Anh Tề mất, thụy hiệu là Minh Vương.
Thái tử Triệu Hưng lên ngôi, để mẹ đẻ làm Thái hậu. Thái hậu lúc chưa làm vợ Anh Tề, thường tư thông với người Bá Lăng tên là An Quốc Thiếu Quý. Sau khi Anh Tề mất, năm Nguyên đỉnh thứ tư (113 BC), nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quý đến dụ dỗ Nam Việt vương và thái hậu vào chầu, như các chư hầu nội địa; ra lệnh cho Biện sĩ gián đại phu Chung Quân đến nhắn nhủ, bọn dũng sĩ Ngụy Thần phụ giúp hỗ trợ, vệ úy Lộ Bác Đức tiến quân đóng ở Quế Dương đợi tin sứ giả. Vương ít tuổi, thái hậu là người Trung Quốc, từng đi lại với An Quốc Thiếu Quý, nay quay lại thông dâm. Người Nam Việt biết rõ, đa số không tán thành thái hậu. Thái hậu bối rối, muốn dựa vào uy nhà Hán, nhiều lần khuyên vương và quần thần xin nội thuộc nhà Hán. Nhân tiện nhờ sứ giả dâng thư lên vua Hán, xin được coi như chư hầu, ba năm triều cống một lần, mở bỏ các cửa ải ngăn giữa nhà Hán và Nam Việt. Thiên tử đồng ý, ban cho Thừa tướng Nam Việt là Lữ Gia ấn bạc, cùng với các loại ấn cho các quan Nội sử, Trung úy, Thái phó, ngoài các chức đó ra thì tự thiết lập. Bỏ hai hình phạt cũ là thích chữ vào mặt và cắt mũi, dùng luật pháp Hán, ngang với các chư hầu nội địa. Sứ đoàn lưu lại áp chế phủ dụ Nam Việt. Vương và thái hậu chuẩn bị hành trang và cống vật , chuẩn bị nhập triều.
Thừa tướng Nam Việt là Lữ Gia đã già, giữ chức ba đời vương, dòng họ hơn bảy mươi người làm việc quan ở bậc trưởng lại, nam lấy vợ là con gái nhà vua, nữ được gả cho con cái anh em tông thất nhà vua, quan hệ với cả Tần vương ở Thương Ngô. Trong nước, Lữ Gia rất được kính trọng, người Việt tin tưởng, có nhiều kẻ làm tai mắt, được lòng dân hơn cả vương. Triệu Hưng gửi thư chấp nhận nhập Hán, Lữ Gia nhiều lần khuyến cáo ngăn cản, vương không nghe. Có ý định làm phản, Lữ Gia mấy lần cáo bệnh không gặp sứ giả triều đình. Sứ giả đều lưu ý Gia, nhưng ở thế chưa thể giết được. Vương và thái hậu sợ bọn Gia khởi sự trước, bèn mở tiệc rượu, dựa vào thế lực sứ giả Hán, âm mưu giết bọn Gia. Các sứ giả ngồi nhìn về phía đông, thái hậu nhìn về phía nam, vương nhìn về hướng bắc, thừa tướng Lữ Gia và đại thần nhìn qua hướng tây, ngồi uống hầu. Em Gia là tướng, cầm quân ở phía ngoài cung điện. Giữa cử rượu, thái hậu nói với Gia nhưng nhằm làm sứ giả nổi giận: “Nam Việt nội thuộc, có lợi cho quốc gia, tướng quân lại lo ngại rằng sẽ bất tiện, tại sao vậy?” Các sứ giả do dự, cuối cùng chẳng ai dám hành động. Gia không thấy thân tín của mình xung quanh, liền đứng lên bỏ đi. Thái hậu phẫn nộ, muốn đâm Gia bằng cây mâu, Triệu Hưng cản lại. Lữ Gia ra được bên ngoài, chia quân của em mình về nhà riêng phòng bị, cáo bệnh, không đồng ý gặp vương và sứ giả. Bèn lén cùng các đại thần chuẩn bị làm loạn. Vương vốn không muốn giết Gia, Gia biết vậy, cho nên mấy tháng không có chuyện gì. Thái hậu cứ dâm loạn, dân trong nước không ưa, muốn giết bọn Lữ Gia nhưng cô độc, không có khả năng.
Hán Vũ đế nghe chuyện Lữ Gia không phục tùng Nam Việt vương, vương và thái hậu lại cô độc yếu đuối không khống chế được, sứ giả nhát gan chần chừ. Nghĩ đã có vương và vương thái hậu đã tuân phục nhà Hán, mỗi Lữ Gia làm loạn, không đáng hưng binh, muốn sai Trang Sâm lấy hai ngàn người đi sứ. Trang Sâm nói: “Đến giao hảo, vài người đã đủ; đến dùng vũ lực, hai ngàn người không đủ đâu.” rồi từ chối vì không khả thi, thiên tử loại bỏ Sâm. Giáp tráng sĩ Hàn Thiên Thu, nguyên là tướng của Tế Bắc vương hùng hổ nói: “Nước Việt bé tí, lại có vương và thái hậu phụ họa, chỉ mỗi Lữ Gia tướng phá hoại, xin được có hai trăm dũng sĩ, hy vọng sẽ chém đầu Gia đem về báo công.” Thiên tử bèn sai Thiên Thu cùng em trai vương thái hậu là Cù Lạc và hai ngàn người tiến đến biên cảnh nước Việt. Bọn Lữ Gia bèn tạo phản, hạ lệnh cho người trong nước: “Vương còn nhỏ, thái hậu là người Trung Quốc, lại cùng sứ giả nhà Hán dâm loạn, chủ trì muốn nội thuộc, đem hết của cải quý báu của tiên vương nịnh nọt hiến nộp cho thiên tử, đem theo nhiều người, đi đến Trường An, bán cho người ta làm nô tì. Y thị chỉ nghĩ đến cái lợi nhất thời cho riêng mình, không màng đến xã tắc của họ Triệu, không lo toan trù tính cho vạn thế nhà chồng.” Bèn cùng em trai đem quân tấn công giết vương, thái hậu và sứ giả. Sai người đến báo cho Tần vương ở Thương Ngô và các quận huyện, lập trưởng nam con người vợ Việt của Minh Vương Anh Tề là Thuật dương hầu Kiến Đức làm vua. Quân Hàn Thiên Thu nhập Việt, phá một vài ấp nhỏ. Sau đó bắt người Việt mở đường và cung cấp lương thực, đến cách Phiên Ngu bốn mươi dặm thì bị quân Việt đánh và tiêu diệt hết. Lữ Gia sai người gói ghém phù tiết ấn tín của của sứ giả Hán đem bỏ ngoài cửa biên tái, trên đó viết mấy lời gian giảo tốt đẹp tạ tội, rồi phát binh trấn thủ tại những nơi hiểm yếu. Vũ đế bảo: “Hàn Thiên Thu tuy không thành công, cũng là quan tiên phong hàng đầu.” Tấn phong con Thiên Thu là Diên Niên làm An thành hầu. Cù Nhạc là chị của vương thái hậu, người cầm đầu việc cầu xin thuộc Hán, tấn phong con Nhạc là Quảng Đức làm Long kháng hầu. Bèn ân xá tội nhân trong nước để chuộc đức và nói: “Thiên tử suy yếu, chư hầu xảy ra bạo lực, người ta sẽ chê cười các đại thần không trừ giặc loạn. Nay bọn Lữ Gia và Kiến Đức làm phản, tự lập mà bình yên vô sự, ta ra lệnh tập hợp tội nhân đến phía nam Giang Hoài cùng thủy binh ở đó tổng cộng mười vạn quân, đi đến Nam Việt thảo phạt.”
Năm Nguyên đỉnh thứ năm (112 BC), mùa thu, vệ úy Lộ Bác Đức được cử làm Phục ba tướng quân, từ Quế Dương, đi xuống sông Hối; chủ tước đô úy Dương Bộc làm lâu thuyền tướng quân từ Dự Chương đem quân xuống Hoành Phố; hai vị hầu cũ của Nam Việt quy hàng nhà Hán làm qua thuyền, cùng Hạ Lệ tướng quân, từ Linh Lăng xuất quân, một cánh xuống sông Li, một cánh chặn tại Thương Ngô; sai Trì nghĩa hầu dựa vào tội nhân đăng lính của Ba Thục, phát thêm quân Dạ Lang, theo đường sông Tang Kha; tất cả tiến về Phiên Ngu.
Năm Nguyên đỉnh thứ sau (111 BC), mùa đông, quân tinh nhuệ của lâu thuyền tướng quân đầu tiên hãm Tầm Xiểm, phá được Thạch Môn, cướp được thuyền thóc của quân Việt, thừa cơ tiến lên, bẻ gãy quân tiên phong Nam Việt, tập hợp vài vạn người đợi Phục Ba. Phục Ba tướng quân cầm quân là tội nhân bị bắt lính, đường xa, đến sau, cùng lâu thuyền hợp vào thêm hơn một ngàn người, rồi cùng tiến. Lâu thuyền tướng quân đi trước, đến Phiên Ngu. Kiến Đức và Lữ Gia cùng thủ trong thành. Lâu thuyền tự chọn chỗ đóng quân thuận tiện, là phía đông nam Phiên Ngu; Phục Ba đến chỗ phía bắc. Lựa lúc trời tối, lâu thuyền đánh bại người Việt, phóng hỏa đốt thành. Người Việt đã từng nghe danh Phục Ba, đêm tối, không biết quân nhiều hay ít. Phục Ba bèn lập doanh trại, sai sứ giả chiêu hàng người Việt, ban ấn quan, rồi lại cho về dụ người khác sang hàng. Mặt này lâu thuyền dồn sức tấn công thiêu đốt đối phương, mặt kia loạn binh chạy đến quân doanh Phục Ba đầu hàng. Mờ sáng, mọi người trong thành đều đầu hàng Phục Ba. Lữ Gia và Kiến Đức lợi dụng đêm tối, cùng thuộc hạ vài trăm người trốn ra biển, dùng thuyền đi về phía tây. Phục Ba bèn tra hỏi các quí tộc Nam Việt, biết được nơi Lữ Gia đến, liền sai người truy tìm. Nguyên hiệu úy hiện dưới quyền Phục Ba là Tư Mã Tô Hoằng bắt được Kiến Đức, được phong Hải thường hầu; quan lang người Việt là Đô Kê bắt được Lữ Gia, được phong Lâm thái hầu.
Thương Ngô vương tên Triệu Quang, cùng họ Việt vương, nghe tin Hán binh đến, cùng huyện lệnh Yết Dương tên Định quyết định thuộc Hán; quan giám người Việt ở Quế Lâm tên Cư Ông dụ dân Âu Lạc hàng Hán; tất cả đều được phong hầu. Quân của qua thuyền và Hạ Lệ tướng quân cùng Trì nghĩa hầu đem quân Dạ Lang đến nơi, Nam Việt đã bình định rồi. Chia làm chín quận. Phục Ba tướng quân được ban thêm đất đai. Lâu thuyền tướng quân điều lính đánh được tuyến phòng thủ kiên cố, phong Tương lương hầu. Từ buổi ban đầu Triệu Đà xưng vương đến cuối, truyền được năm đời, tổng cộng 93 năm thì nước bị diệt.
Thái sử công viết: Ngôi vương của quan úy Triệu Đà, gốc rễ từ Nhâm Hiêu. Gặp lúc nhà Hán vừa yên định, được liệt vào hàng chư hầu. Long lư hầu gặp phải khu vực ẩm thấp, dịch bệnh hoành hành, Đà được thể kiêu ngạo. Người Âu Lạc đánh nhau, Nước Nam Việt lung lay, Hán binh đến biên giới, Anh Tề vào chầu. Sau này mất nước, cũng bởi Cù nữ; Lữ Gia lòng trung nhỏ hẹp, cho nên huyện lệnh Đà không người nối nghiệp. Lâu thuyền tướng quân phóng túng, lười biếng kiêu căng sai trái mê loạn; Phục Ba khốn cùng, trí mưu nảy nở, từ họa ra phúc. Thành bại chuyển dời, ràng chặt với nhau.
———————————————–
[1] Phẫu phù là vật làm tin, thường viết nội dung thiên tử công nhận chư hầu, rồi chẻ làm đôi, mỗi bên giữ một nửa.
[2] Từ việc phát lộ đế ấn của Triệu Hồ trong lăng mộ, dẫn đến khả năng đế ấn của Triệu Đà cũng được chôn theo. Do đó chúng tôi nghĩ câu này có ngầm ý là Anh Tề tuyệt đối tuân thủ yêu cầu cấm dùng đế hiệu của nhà Hán.
Recent Comments