社稷兩回勞石馬,
山河千古奠金甌
Trên đây là hai câu thơ chữ Hán nổi tiếng của Trần Nhân Tông, âm Hán Việt: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã. Sơn hà thiên cổ điện kim Âu. Trần Trọng Kim dịch thành: Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
***
Âu ở đây chính là Âu trong Âu Lạc, một thành tố đẳng lập tổ hợp bởi nguyên nghĩa Đất và Nước.
Âu tương đương với xứ sở, hay chữ quốc ở Hán ngữ. Âu bắt nguồn từ nước Việt thời chiến quốc, là ngôn ngữ bản địa của Câu Tiễn, đến năm 193 BC nó vẫn còn tồn tại ở quốc danh Đông Âu của Diêu vương, hậu duệ Câu Tiễn.
Người Man Di Hoa nam gọi vùng sinh sống của mình, dọc theo các nhánh chính và phụ của con sông Tây Giang (ảnh dưới) là Lạc, nghĩa là nước, hàm ý cả xứ sở.
Văn hóa Di giao thoa với văn hóa Việt chiến quốc tại Nam Việt đã khai sinh ra thuật ngữ đẳng lập Âu Lạc. Âu Lạc cũng giữ vai trò là tên bản địa của Nam Việt trong các ngữ cảnh Sử Ký và Hán thư.
Tổ tiên nhà Trần đến Việt Nam từ đất Mân. Họ kế thừa nhánh văn hóa Âu Việt, thông hiểu văn hóa Lạc Việt, lấy Nam Việt và Triệu Đà làm cảm hứng kiến quốc. Như Sử Ký đã mô tả:
“Đà nhân đó dùng cường binh uy hiếp biên giới, dùng của cải mua chuộc hối lộ quí tộc người Di ở Mân Việt và Tây Âu Lạc, khiến họ phụ thuộc, nhờ thế đất đai Nam Việt từ đông sang tây hơn vạn dặm. Lại ngồi xe mui vàng, trên xe cắm cờ tả đạo, mệnh lệnh đưa ra gọi là chế và chiếu như thiên tử, tự xem ngang hàng với Trung Quốc”.
***
Sergei Starostin liệt kê âm Âu trong tiếng Miến Điện, Kachin (Bắc Miến Điện) và Trung Quốc hiện nay đều chỉ: cái vại, cái ca, cái bình, nồi nấu lớn, cái vạc, cái âu đựng thức ăn hoặc nước. Nghĩa của nó trong tiếng Việt là cái âu. Nguyên liệu cổ đại tạo nên tất cả những thứ đó là đất. Do đó nếu cho rằng nghĩa cổ nhất của Âu (ít nhất là trước năm 678 BC, khi tiểu quốc Âu Đặng còn tồn tại) là đất thì không có gì hoang đường cả. Thậm chí chỉ có Âu mang nghĩa là Đất (quốc gia) mới thỏa mãn tất cả các quốc danh và vương hiệu gắn với chữ Âu trong sách sử Trung Hoa, kể cả những chữ Âu đồng âm dị tự: Âu Đặng, Âu Việt, Đông Âu, Đông Âu vương, Âu nhân…
Và trong văn hiến Việt Nam, ít nhất hai lần chữ Âu đã xuất hiện, dù chưa thật rõ ràng nhưng vẫn có thể hiểu Âu là Đất, là quốc gia: Vua Trần Nhân Tông năm 1288 đã viết hai câu thơ [社稷兩回勞石馬,山河千古奠金甌 – Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim Âu]. Hồ Hán Thương cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15 đã đổi tên một ngọn núi ở Thanh Hóa là Kim Âu 金甌. Hầu hết các dịch giả Việt Nam hiện đại đều cho rằng Âu là cái âu, cái chậu; Kim Âu là một điển cố thuần Hán chỉ quốc gia. Hãy bỏ qua chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và nhìn vào sự kiện một cách khách quan nhất để lựa chọn hàm ý.
***
Sử gia Trần Trọng Kim dịch “kim Âu” là cái chậu vàng. Cái chậu, một thứ đồ dùng gia dụng, nhiều khi giữ những chức năng vệ sinh bẩn thỉu, dù bằng vàng hay kim cương đi nữa, không thể và không bao giờ có thể được vua Trần so sánh với đất nước của mình cả. Chữ Âu trong thơ ông là mật mã bí hiểm của lịch sử đã được khai mở trong quyển sách sắp xuất bản:
KHẢO CHỨNG TIỀN SỬ VIỆT NAM bằng THIÊN VĂN HỌC CỔ ĐẠI TRUNG HOA
(Research prehistory of Vietnam under Chinese classical Astronomy)
Tác giả Trương Thái Du
May 08, 2017 @ 20:45:45
Bác nghĩ Âu mang nghĩa Đất, chứ ko phải âm Đất, ấy là đang đi đường vòng đấy! Rất dễ bị phản biện lắm. ÂU có mang nghĩa đất là qua âm vận ÂU còn có thể đọc là U=Ụ=NHÔ-RÚ, tức là NÚI. Mà NÚI chỉ là 1 phần rất nhỏ của ĐẤT thôi. Khái niệm ĐẤT rất rộng, không chỉ có NÚI không thôi, mà có thể là cánh đồng, ruộng đồng, sa mạc… đều là đất. Mà từ ĐẤT hoặc ĐẤT NƯỚC trong tiếng Việt thường hàm nghĩa lãnh thổ tự nhiên của một QUỐC GIA/NHÀ NƯỚC. Có 1 từ nữa ngang với QUỐC GIA/NHÀ NƯỚC là LÀNG NƯỚC.
Ta thấy rõ ĐẤT hay ĐẤT NƯỚC là lãnh thổ tự nhiên sẵn có. Còn như QUỐC GIA/NHÀ NƯỚC hay LÀNG NƯỚC là cái mà con người tạo dựng nên. Con người tụ lại thành cộng đồng có luật lệ chung gọi là LÀNG, cao hơn là tập hợp các LÀNG là NƯỚC hay NHÀ NƯỚC.
Bác có bằng chứng nào người Lĩnh Nam gọi quốc gia, xứ sở của mình là ÂU LẠC không? Ý tôi là ngôn ngữ còn sót lại trong các dân Choang, Nùng, Lê ở Hoa Nam hay người Quảng Đông à những dân ở đất Lĩnh Nam.
May 03, 2017 @ 18:27:23
Bác Tích Dã ơi. Tôi nghĩ Âu mang nghĩa Đất, chứ ko phải âm Đất. Âm Đất có khả năng từ chữ Thổ, cổ âm Thổ là quảng vận》《 chánh vận》 đồ cổ thiết《 tập vận》
《 vận hội》 động ngũ thiết,𠀤 âm đỗ.
May 02, 2017 @ 17:49:16
Bác tách Âu ra, thấy chữ Khu. Nghĩa đất nằm trong đấy. Khu vực. Khu vực là từ đẳng lập.
May 02, 2017 @ 13:27:31
Lại nói từ Âu (甌) có gốc từ Âu Việt (甌越), tức là Ư Việt (於越), Vu Việt (于越).
《春秋》定公五年:「於越入吳。」
Xuân thu, năm thứ 5 thời Định Công, “Người Ư Việt vào nước Ngô.”
杜預曰。於、發聲也。
Đỗ Dự nói: “Ư, là tiếng phát âm vậy.”
Dật Chu thư – Vương hội giải có nhắc đến các nước Âu Đặng (甌鄧), Việt Âu (越漚), Cụ Âu (具區), Âu Đặng, Âu Thâm (漚深), Âu Nhân (歐人). Hoài Nam Tử – Nhân gian huấn có nói nước Tây Âu (西嘔).
Vậy Âu (甌) là từ ghi âm của dân Âu Việt ở ở miền Đông Nam ngày xưa. Âu có thể dùng các từ 甌, 區, 漚, 歐, 嘔, 於, 于 để ghi âm. Sang thời Hán dùng từ Âu (甌) để chỉ người Âu Việt (甌越), nước Đông Âu (東甌).
May 02, 2017 @ 11:12:55
Âu Lạc chính là Đất Nước bác ơi, ký âm bằng Hán tự.
________________
Vậy từ Âu (甌) là chữ Hán kí âm từ nào của tiếng Việt? Ý bác là kí âm của từ âu/u/rú (núi) sao? Thì có liên quan gì đến Đất (thổ 土/địa地)? Âm vận Âu là khác xa âm vận Địa/Thổ.
Trong khi đó tiếng Hán có từ ổ (塢) chính là kí âm của u/ụ đó.
塢 ổ
坞 wù
(Danh) Lũy, thành lũy nhỏ. ◇Hậu Hán Thư 後漢書: Hựu trúc ổ ư Mi, cao hậu thất trượng, hiệu viết Vạn Tuế ổ 又築塢於郿, 高厚七丈, 號曰萬歲塢 (Đổng Trác truyện 董卓傳) Lại đắp lũy ở đất Mi, cao dày bảy trượng, gọi tên là lũy Vạn Tuế.
(Danh) Ụ, khóm, chỗ chung quanh cao và ở giữa thấp. ◎Như: san ổ 山塢 ụ núi, thuyền ổ 船塢 ụ đất bên bờ cho thuyền đậu. ◇Hồng Lâu Mộng 紅樓夢: Phương li liễu ổ, sạ xuất hoa phòng 方離柳塢, 乍出花房 (Đệ ngũ hồi) Vừa rời khóm liễu, đã tới buồng hoa.
(Danh) Thôn xóm. ◇Đỗ Phủ 杜甫: Tiền hữu độc xà, hậu mãnh hổ, Khê hành tận nhật vô thôn ổ 前有毒蛇後猛虎, 溪行盡日無村塢 (Phát Lãng Trung 發閬中) Phía trước là rắn độc, sau hổ dữ, Đi đường khe suối cả ngày không gặp thôn xóm.
Âu (甌) như đã dẫn là từ có gốc từ Âu Việt (Chiết Giang), là từ địa phương Ngô-Việt để chỉ cái bồn/ang, tên của con sông Âu, nước Đông Âu, thì có liên quan gì đến Nam Việt chứ? Theo Sử kí – Đông Việt liệt truyện, dòng dõi Việt vương Câu Tiễn sau khi bị Sở diệt thì phân tán miền Giang Nam làm quân trưởng đất Mân Việt ở Phúc Kiến và nước Đông Âu ở Chiết Giang thôi! Còn đất Nam Việt ở Lĩnh Nam là ngoài vòng lãnh thổ của Âu Việt. Cớ gì người Hán gọi Âu Lạc để chỉ Nam Viêt? Có thể nói Âu Lạc là nước khác Nam Việt:
1. Sử kí – Nam Việt liệt truyện: 秦時已并天下,略定楊越,置桂林、南海、象郡,以謫徙民,與越雜處十三歲。秦已破滅,佗即擊并桂林、象郡,自立為南越武王。高后崩,即罷兵。佗因此以兵威邊,財物賂遺閩越、西甌、駱,役屬焉,東西萬餘里。且南方卑溼,蠻夷中閒,其東閩越千人眾號稱王,其西甌駱裸國亦稱王。越桂林監居翁諭甌駱屬漢。甌駱相攻,南越動搖。Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ (năm 221 TCN), đánh lấy đất Dương Việt đặt ra các quận Quế Lâm-Nam Hải-Tượng Quận để đem dân đến ở lẫn với người Viêt (năm 214 TCN), được 13 năm… Sau khi nhà Tần đã phá diệt (năm 206 TCN), Triệu Đà đánh chiếm cả Quế Lâm-Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương… Sau khi Cao Hậu băng, nhà Hán bãi binh (năm 180 TCN), Đà nhân đó đem quân uy hiếp biên giới-dùng tài vật hối lộ các nước Mân Việt-Tây Âu-Lạc, bắt họ phụ thuộc theo mình, đông tây vạn dặm… Vả chăng miền Nam ẩm ướt, Man Di ở giữa, phía đông nó là Mân Việt nghìn người xưng vương, phía tây nó là Âu Lạc nước trần truồng cũng xưng vương. Viên Giám quận Quế Lâm của Nam Việt là Cư Ông dụ dân Âu Lạc hàng nhà Hán… Âu Lạc đánh nhau, Nam Việt rúng động.
Từ năm 206 TCN, nhà Tần đã diệt thì Triệu Đà đã chiếm cả Nam Hải-Quế Lâm-Tượng Quận rồi, lập nước Nam Việt, bao quát cả Lưỡng Quảng ngày nay. Vậy thì năm 180 TCN, sau khi Cao Hậu băng, Triệu Đà dùng binh uy-tài vật bắt Mân Việt-Tây Âu-Lạc phụ thuộc theo mình, vậy thì Tây Âu và Lạc cùng với Mân Việt phải là nước ngoài Nam Việt, không lẽ Triệu Đà lại uy hiếp mua chuộc dân Âu Lạc trong lãnh thổ Nam Việt của mình? Đó là 1. Trong thư Đà gửi nhà Hán có nói: “Phía đông có Mân Việt, phía tây có Âu Lạc, là 2 nước ở 2 bên của Nam Việt, chứng tỏ Âu Lạc là nước khác Nam Việt, đó là 2. Viên Giám quận Quế Lâm của Nam Việt dụ Âu Lạc hàng nhà Hán, chẳng lẽ lại dụ dân Âu Lạc ở trong nước Nam Việt? Chính là dụ thủ lĩnh (trưởng quan hoặc quân trưởng) đứng đầu 40 vạn dân Âu Lạc ấy, đó là 3. Cái khó hiểu ở câu “Âu Lạc đánh nhau, nước Nam Việt rúng động”, có thể là Âu Lạc đánh nhau ở đây là Mân Việt và Đông Âu đánh nhau, gián tiếp nhà Hán gửi quân cho Trang Trợ sang hiểu dụ Nam Việt, khiến cho vua Nam Việt rúng động, dù sao Âu Lạc ở trong câu ấy cũng không phải Nam Việt.
2. Hán thư- Tuy Lưỡng Hạ Hầu Kinh Dực Lí truyện: 孝武皇帝躬仁誼,厲威武,北征匈奴,單于遠遁,南平氐羌、昆明、甌駱兩越,東定薉、貉、朝鮮,廓地斥境,立郡縣,百蠻率服。Hiếu Vũ Hoàng Đế tỏ nhân nghị, trổ oai vũ, bắc đánh Hung Nô, Thiền vu chạy dài, nam bình Đê-Khương-Côn Minh-Âu Lạc-Lưỡng Việt, đông định Uế-Mạch-Triều Tiên, mở đất lấn cõi, lập quận huyện, Bách Man thần phục.
Âu Lạc ở trên là một trong các Man Di bị nhà Hán chinh phục đặt quận huyện đấy. Lưỡng Việt là Nam Việt và Đông Việt (tức Mân Việt, bấy giờ trước đó Đông Âu đã bị diệt dời dân về miền Giang Hoài).
– Bình định Âu Lạc-Lưỡng Việt đặt 9 quận: Nam HảI, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai Đam Nhĩ.
– Bình định Uế-Mạch-Triều Tiên đặt 4 quận: Lạc Lãng, Huyền Thố, Chân Phiên Lâm Đồn.
– Bình định Đê-Khương-Côn Minh đặt 7 quận: Kiền Vi, Tang Kha, Việt Tủy, Trầm Lê, Vấn Sơn, Vũ Đô, Ích Châu.
May 01, 2017 @ 15:28:51
Âu Lạc chính là Đất Nước bác ơi, ký âm bằng Hán tự. Nó ở trước mắt bác mà bác ko thấy sao?
May 01, 2017 @ 15:27:13
Bác chịu khó cập nhật khảo cổ thêm, bác sẽ thấy tôi nói có lý. https://books.google.com.vn/books?id=TQNaAQAAQBAJ&pg=PA31&lpg=PA31&dq=taosi+wall+town&source=bl&ots=myLLRcRuEF&sig=r1v_jJy0wgfak3gOUcSAoubmt4w&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwjquoLvos7TAhWCFpQKHfVzAvAQ6AEINzAD#v=onepage&q=taosi%20wall%20town&f=false
May 01, 2017 @ 11:30:13
Khái niệm Quốc (國) thời Tây Chu rồi Xuân thu – Chiến quốc thì đơn giản thôi:
Quốc (國): (hội ý) bản nghĩa là một vùng đất có xác định diện tích lãnh thổ bao quanh (囗), có quân đội cầm vũ khí (戈) bảo vệ và người dân (口).
Chữ vi (囗): là bao quanh, bao bọc lấy, hình tròn bao quanh, chứ không có nghĩa là tường thành.
– Sở quốc: Nước Sở bao quát miền Giang Hoài (sau khi thôn tính Việt quốc).
– Tần quốc: Nước Tần bao quát miền sông Vị.
– Tề quốc: Nước Tề bao quát miền phía bắc sông Hoài-Tứ…
Còn các bộ tộc Man Di ở Lĩnh Nam xứ sở của mình tương đương người Trung Nguyên gọi quốc (國) là gì: Có thể là Bộ (部), hoặc là mường (茫) , hoặc là Kẻ/Cổ (古)…
Từ “Đất Nước” có vẻ như chỉ xuất hiện thế kỉ 20 đến nay.
Từ một vùng Đất hiền hòa đến Vực có vũ khí thô sơ đảm bảo chủ quyền, qua Quốc có hộ thành và quân đội, cuối cùng là Bang có chư hầu; ngôn ngữ Trung Quốc đã qua bốn bậc phát triển, hay cũng có thể nói là bốn bậc văn minh. Từ Tần Thủy Hoàng trở đi, chữ Quốc ở bậc thứ ba được dùng cho tới ngày nay.
Có lẽ đó là một trong những lý do trước Công nguyên người Trung Hoa gọi những dân tộc khác là Man Di, nếu ở đó con người chỉ mới khái quát Đất hoặc Nước là xử sở, không gian sinh tồn của một cộng đồng dân cư, hoặc các hình thức tiền quốc gia như liên minh bộ lạc.
May 01, 2017 @ 11:14:48
Đất Nước là 2 từ ghép Đất và Nước, trong tiếng Việt ngày nay cũng hàm nghĩa là Non Sông – Giang Sơn – Sơn Hà. Nhưng thời Tần-Hán thì làm sao biết được nghĩa là gì? Bác chứng minh được không. Xin hỏi lại, ngữ âm của từ Âu (甌) trong tiếng Việt hay tiếng Hán là Đất không? Nếu không thì giả thuyết của bác là không thuyết phục rồi! Phân tích mặt chữ cũng không phải là Đất hay phiếm chỉ Quốc Gia/ Xứ Sở.
Chữ Vi 囗 trong Quốc (國) không có nghĩa là tường thành bác ạ, nó chỉ là hình vẽ chỉ lãnh thổ, là hình khoanh tròn, nét liền như đường biên giới trên bản đồ ngày nay đấy. Thành (城) thời xưa xây rất khó nhọc và tốn kém, thường xây bằng đá có bờ tường cao, không phải nước nào cũng xây. Chỉ có kinh đô hoặc những nơi quan trọng người ta mới xây thành thôi. Ví dụ nước Sở (Sở quốc 楚國) thời Xuân thu-Chiến quốc có lãnh thổ rất rộng bao quát cả miền Giang Hoài, không thể gọi là xây thành bao quanh cả nước Sở được mà chỉ xây thành ở một số nơi thôi. Tùy vào nền văn hóa và địa lí, mỗi dân tộc có trình độ quản lí nhà nước thì không nhất thiết phải là xây thành, chỉ có kinh đô nơi vua ở thì xây thành thôi. Đơn vị cơ bản của nước (國) thời Xuân thu ở Trung Nguyên vẫn là chia ta nhiều huyện (縣), ấp (邑). Ở Bắc Việt Nam có nước Âu Lạc của An Dương Vương cũng không xây thành, ngoài cái thành Cổ Loa, thực ra là một hệ thống lũy đắp bằng đất là chính.
May 01, 2017 @ 10:53:20
Ngay cả Quốc cũng có lúc đã là đất đấy bác. Âu mang nghĩa xứ sở là bình thường:
Hơn một thế kỷ rưỡi nay, các nhà ngôn ngữ học cứ xoay như chong chóng khi nghiên cứu nhằm xác định tiếng Việt thuộc ngữ hệ nào vì đối tượng có quá nhiều gốc. Ngay trong từ ghép Đất Nước để chỉ quốc gia, chúng ta đã thấy sự đẳng lập của hai từ đơn tương đối sơ khai và nguyên thủy để chỉ khái niệm quốc gia đầu tiên, ở rất nhiều ngôn ngữ khắp thế giới là Đất và Nước.
Tại Trung Quốc, giáp cốt văn thời Thương Ân dùng từ Vực或 để mô tả cương vực, khái niệm quốc gia. Nó ghép bởi chữ Qua戈 là một thứ vũ khí và một hình tròn nhỏ bên cạnh tượng trưng một vùng đất. Ý nghĩa của nó là mảnh đất này có chủ. Chậm nhất là ở thời Tây Chu, quốc gia biểu thị bằng chữ Quốc 國, lúc này cương vực (chữ Vực 或) đã có tường thành (chữ Vi囗) bao quanh. Chu Lễ còn viết: Nước lớn gọi là Bang, nước nhỏ là Quốc. Từ một vùng Đất hiền hòa đến Vực có vũ khí thô sơ đảm bảo chủ quyền, qua Quốc có hộ thành và quân đội, cuối cùng là Bang có chư hầu; ngôn ngữ Trung Quốc đã qua bốn bậc phát triển, hay cũng có thể nói là bốn bậc văn minh. Từ Tần Thủy Hoàng trở đi, chữ Quốc ở bậc thứ ba được dùng cho tới ngày nay.
Có lẽ đó là một trong những lý do trước Công nguyên người Trung Hoa gọi những dân tộc khác là Man Di, nếu ở đó con người chỉ mới khái quát Đất hoặc Nước là xử sở, không gian sinh tồn của một cộng đồng dân cư, hoặc các hình thức tiền quốc gia như liên minh bộ lạc.
May 01, 2017 @ 09:55:33
Xin hỏi bác từ Âu (甌) trong tiếng Mân Việt nghĩa là gì mà bác nói nghĩa Quốc Gia. Như đã dẫn rồi, chữ Âu (甌) không có nghĩa là đất, bác thử tra từ điển từ “âu/ōu” trong tiếng Hán hay bất kì phương ngữ nào ở Giang Nam (Ngô, Mân, Tương, Huy, Việt, Cám…) có nghĩa là “đất” không?
– Âu (甌): (hình thanh) bản nghĩa là cái bồn/ang đựng nước/rượu có khu (區) biểu âm âu/ōu và ngõa (瓦) biểu ý là đồ làm bằng gốm/gạch.
– Quốc (國): (hội ý) bản nghĩa là một vùng đất có lãnh thổ (囗), quân đội cầm vũ khí (戈) và người dân (口).
– Gia (家): (hội ý) bản nghĩa là gia đình có nhà cửa (宀) và làm kinh tế nuôi gia súc nông nghiệp nói chung (豕).
Để chỉ vùng đất nào đó người ta thường dùng từ:
– Thổ (土),
– Địa (地),
– Quốc (國),
– Châu (州),
– Bộ (部).
Ví dụ gọi vùng Trung Nguyên (中原) là Trung Thổ (中土), Trung Quốc (中國), Trung Châu (中州).
Gọi đất Nam Việt (南越) là Việt Địa (越地), Giao Châu (交州), Giao Thổ (交土), Giao Bộ (交部).
Tất cả các từ -Thổ (土) – Địa (地) – Quốc (國) – Châu (州) – Bộ (部) đều không có liên hệ ngữ âm hay âm vận gì với từ Âu (甌) hết!
_________________
Âu (甌) trong Âu Việt (甌越), Đông Âu (東甌), Tây Âu (西甌), Âu Lạc (甌駱) chỉ là tộc danh hoặc quốc danh mà thôi.
1. Âu Việt (甌越): tức là người Ư Việt (於越)/ Vu Việt (于越) chỉ người Việt ở bên sông Âu, tức là nước Việt của Câu Tiễn thời Xuân thu, đến thời Tần-Hán là nước Đông Âu (東甌).
2 Tây Âu (西甌): tức là Tây Âu (西嘔) trong Hoài Nam Tử của quân trưởng là Dịch Hu Tống, là “nước Tây Âu nửa yếu đuối cũng xưng vương” thời Triệu Đà làm vua Nam Việt đó.
3. Âu Lạc (甌駱): chỉ có thể hiểu thành 2 khả năng sau tùy bào ngữ cảnh trong sách Tàu:
– Tức là Lạc (駱) có Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc dân, Lạc điền, An Dương Vương, bị Triệu Đà chinh phục, “Đà đem binh uy hiếp biên giới, đem tài vật hối lộ Mân Việt, Tây Âu, Lạc, bắt họ phụ thuộc theo mình” hay “quan Giám quận Quế Lâm là Cư Ông dụ dân Âu Lạc hàng nhà Hán”.
– Tức là ghép của 2 bộ tộc Tây Âu và Lạc Việt.
Apr 30, 2017 @ 22:01:24
Âu ở đây chỉ quốc gia chứ, ngôn ngữ Mân Việt 🙂
Apr 30, 2017 @ 21:06:41
Núi Kim Âu (金甌山)
Núi Kim Âu ở xã Kim Âu, huyện Vĩnh Lộc (xưa là Vĩnh Phúc), tỉnh Thanh Hoá, nguyên trước gọi là núi Ông Lâu hay Đại Lại, đến đời Hồ Hán Thương mới đổi là Kim Âu và xây thành ở phía nam núi, trong thành có lập cung Bảo Thanh và chùa Phong Công.
http://www.thivien.net/V%C5%A9-Qu%E1%BB%B3nh/%C4%90%E1%BB%81-Kim-%C3%82u-s%C6%A1n-Phong-C%C3%B4ng-t%E1%BB%B1/poem-FUfIKiiMRVZTqf2-0c5b7A
__________________
Cũng như vậy thôi mà bác :))
Thời nhà Trần cũng theo Nho học rồi mà, vua quan nhà Trần cũng dùng điển tích Tàu đầy rẫy ra, cái Kim Âu thì cũng vậy thôi.
Núi Kim Âu tức là núi Âu Vàng, cái âu vàng to như ngọn núi, càng vững chắc.
Âu là U/Rú/Nhú thì có liên liên gì đến đất nước? Thành tố đất {thổ (土)/ địa (地)} là khác với núi (山). Đất là nói chung, có thể có địa hình bằng phẳng hoặc gồ ghề, hoặc đồi núi. Đất chỉ là một thành tố để tạo nên núi, thành phần chính của núi là đá {(thạch (石)} nhé.
Nếu núi Kim Âu theo nghĩa của bác là Núi Đất Vàng, là không thực tế. Có cái núi nào mà đắp bằng đất mới là vững chứ?
=> Âu (甌) trong tiếng Việt không có nghĩa là đất.
Trong tiếng Việt ngày nay cũng dùng từ âu để chỉ đồ đựng đấy thôi:
Danh từ
đồ đựng trông giống cái ang, nhưng nhỏ hơn
âu sành
âu đựng trầu
Danh từ
âu tàu (nói tắt).
ụ (để đưa tàu thuyền lên).
_______________
Apr 30, 2017 @ 20:34:04
Bác Tích Dã ơi. Bác hãy đặt mình là người Việt thời Trần, rồi hãy suy luận. Tôi tặng bác thêm một chi tiết nữa nhé. Nhà Hồ có đổi tên một ngọn núi là Kim Âu đấy.
Apr 30, 2017 @ 19:42:25
Học giả Trần Trọng Kim hoàn toàn chính xác bác ạ.
– Từ Âu (甌) trong tiếng Hán nghĩa là:
1. Cái bồn nhỏ.
2. Cái cốc đựng nước/rượu.
3. Tức là người Âu Việt ở Chiết Giang, thành phố Ôn Châu tỉnh Chiết Giang gọi tắt là Âu (甌)
4. Tên con sông Âu, nước Đông Âu ở Chiết Giang hay nước Tây Âu ở Quế Lâm, hay nước Âu Lạc ở Giao Chỉ.
5. Âu lâu (甌窶): vùng đất cao mà nhỏ hẹp.
6. Âu thoát (甌脫) : phiên âm tiếng Hung Nô, nghĩa là vùng đất trống, hố đất.
Khu (區): hài thanh
Ngõa (瓦): biểu ý.
Nguyên nghĩa âu (甌) trong tiếng Ngô-Việt là cái bồn để đựng nước, thường làm bằng đất nung như làm ngói, cho nên kèm theo bộ ngõa (瓦), hài thanh âu/u cho nên kèm theo bộ khu (區).
又《史記·滑稽傳》甌窶滿篝。《註》正義曰:甌窶,謂高地狹小之區,得滿篝籠也。
– Từ âu (甌) có thể phiên âm trong tiếng Việt từ bu, vu, khu, rú, nhú, u, ụ, nghĩa là nhô cao lên như ngọn núi, cặp nhũ hoa của phụ nữ cũng có nghĩa như vậy (vú/nhú…).
-Từ âu (甌) có thể phiên âm từ bu, vu, khu, rú, nhú, u, ụ trong tiếng Thái nghĩa là “người”.
Đất thì cũng có thể bằng phẳng như bãi đất, chứ không chỉ có núi non nhô lên. U, âu, nhú, rú, trong tiếng Việt (Kinh-Mường) có nghĩa nhô lên, phàm cái gì nhô lên thì gọi là u (âu), nhú.
Ví dụ:
– Bệnh ung thư, sưng vù lên còn gọi là bệnh “u bướu”
– Địa hình đất đá nhô lên cao thì gọi là “rú” (tiếng địa phương Nghệ Tĩnh của núi)
– Nhũ hoa của phụ nữ nhô lên gọi là “vú”.
Thơ của vua Trần Nhân Tông làm sau khi đuổi giặc Nguyên Mông khỏi đất nước có câu:
社稷兩回勞石馬, 山河千古奠金甌
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thủa vững âu vàng.
Chữ âu trên nghĩa là cái cốc đựng rượu, kim âu/âu vàng nghĩa là cái cốc đựng rượu làm bằng vàng. Ngày xưa cái cốc rượu bằng vàng ví như đồ quý hiếm được người ta nâng niu, giữ gìn. Khi có chiến loạn thì có phá hủy, tông miếu, thành trì, ngựa đá ở đàn xã tắc có thể bị đốt phá, nhưng cái âu vàng thì không bị sứt mẻ gì, vì nó bằng vàng mà!
Vua Trần không nói bừa ví xã tắc vững như cái âu vàng nhỏ bé, mà không ví cái ngọn núi to lớn sừng sững bằng vàng có phải hơn không? Thực ra ví như kim âu là có điển cố từ sách Tàu rồi:
– Nam sử – Chu Dị truyện: 我國家猶若金甌,無一傷缺。Ngã quốc gia do nhược kim âu, vô nhất thương khuyết.
(Nhà nước ta vẫn như cái âu vàng, không có sứt mẻ gì.)
Do đó kim âu cũng được ví như quốc gia, xã tắc:
– Nam Bắc sử cảm ngộ của Tư Không Đồ thời Đường: 兵圍梁殿金甌破,火發陳宮玉樹摧。Bi nh vi Lương điện kim âu phá, hỏa phát Trần cung ngọc thụ tồi.
Quân vây điện nhà Lương thì kim âu bị phá, lửa cháy cung nhà Trần thì cây ngọc bị gãy.
– Quốc ca của nhà Mãn Thanh vào năm 1911 của tác giả Nghiêm Phục (嚴復) có bài Củng kim âu (鞏金甌), nghĩa là “củng cố quốc gia”.
Hình kim âu/âu vàng: cốc đựng rượu
[img]http://tupian.baike.com/doc/%E9%87%91%E7%93%AF/tctupian/1/1?target=a1_80_77_01300543677571145628773396926.jpg[/img]