Nếu cho rằng Âu Lạc là quốc gia của An Dương Vương ở đồng bằng sông Hồng thì nó sẽ mâu thuẫn với tất cả các ngữ cảnh, trừ tập hợp #1A. Theo #1A: Quan Giám Quế Lâm đã ngồi máy bay trực thăng đi xuống đồng bằng sông Hồng phía tây nam Quế Lâm, vượt qua khoảng cách 640km theo đường chim bay, phía dưới là núi non trùng điệp, để dụ hơn 40 vạn dân binh Âu Lạc thuộc Hán.

DansoGiaoChi1

Mặt khác theo Địa lý chí hạ của Hán Thư: 交趾郡,戶九萬二千四百四十,口七十四萬六千二百三七 Giao Chỉ quận có 92.440 hộ, 746.237 nhân khẩu. Nếu cho số liệu của Hán Thư là ở cuối thời Tây Hán, thì trong vòng 100 năm, dân số Âu Lạc, tức quận Giao Chỉ đã tăng gần gấp đôi.

Khả năng rất lớn ở đây là sử quan thống kê nhân khẩu đã nhầm lẫn giữa Giao Chỉ quận và Giao Chỉ bộ. Thật vậy, theo Hán Thư số liệu nhân khẩu các quận của Giao Chỉ bộ như sau: Nam Hải: 19.613 hộ, 94.253 khẩu. Uất Lâm: 12.415 hộ, 71.116 khẩu. Thương Ngô: 24.379 hộ, 146.160 khẩu. Hợp Phố: 15.398 hộ, 78.980 khẩu. Tổng cộng nhân khẩu 4 quận phía nam nhà Tây Hán là 390.509 người. Suýt soát 40 vạn, chính là con số Sử Ký đã đưa ra.

Việc không có các con số nhân khẩu của Châu Nhai và Đạm Nhĩ, hai quận thuộc đảo Hải Nam là do quan Hán ra đảo luôn bị người bản xứ giết hại. Sau khi Hán Chiêu đế lên ngôi thì sát nhập hai quận làm một là Chu Nhai. Sau năm 48 BC thì bỏ luôn vì chi phí giữ quận cao quá.

Các sử gia phương Tây, những người luôn tư duy rất logic trên các con số như Bielenstein (1948), Stephen O’ Harrow (1978) đều bật ngửa (confused) với số liệu dân số quận Giao Chỉ thời Tây Hán. Họ đâu biết rằng chính sử gia Trung Quốc cũng lẫn lộn giữa Giao Chỉ bộ và Giao Chỉ quận, chứ không phải riêng sử gia phong kiến Việt Nam.

Bảng dưới đây thống kê dân số chín quận thuộc Giao Chỉ bộ ở hai thời kỳ Tây Hán và Đông Hán, lấy ra từ Hán Thư và Hậu Hán Thư.

DansoGiaoChi

Chúng tôi tin chắc con số 746.237 là dân số của Giao Chỉ bộ gồm 9 quận. Giao Chỉ bộ bắt đầu bằng bốn quận nội địa Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô và Hợp Phố, dân số của nó tương đương 40 vạn người là số liệu Sử Ký đã nói. Các quận còn lại dần dần mới bị chiếm đóng sau này.

Như vậy nếu lấy số 746.237 trừ đi tổng số của sáu quận còn lại, chúng ta sẽ có con số khá thuyết phục, dân số quận Giao Chỉ khoảng cuối thời Tây Hán là 120.230 người. Nó hoàn toàn hợp lý trong tương quan dân số với các quận còn lại.

Số dân quận Cửu Chân nhiều hơn quận Giao Chỉ gần gấp rưỡi cũng nói lên những điều rất thú vị. Trung tâm của đồ đồng Đông Sơn đông dân hơn, có khả năng trù phú hơn đồng bằng sông Hồng ở thời điểm Công nguyên là điều dễ hiểu.

Dân số Thương Ngô tăng gấp ba lần, Nam Hải tăng hai lần rưỡi sau khoảng hơn 100 năm, cũng có khả năng do sự di dân của người Hán từ Trung Nguyên xuống. Nói cách khác, sự Hán hóa đã xảy ra mãnh liệt ở các quận phía bắc của Giao Chỉ bộ trong thời Hán.

(Trích sách KHẢO CHỨNG TIỀN SỬ VIỆT NAM bằng THIÊN VĂN HỌC CỔ ĐẠI TRUNG HOA)