The origin of the historic terms Ouyue 甌越 and Luoyue 駱越

Tiền đề: Chúng tôi nhận thấy dấu vết trừu tượng hóa từ tố đất và nước để trở thành quốc danh trong rất nhiều ngôn ngữ khắp hoàn cầu. Tùy vào ngữ pháp, đất và nước có thể gọi là tiền tố hay hậu tố. Hậu tố đất/land/soil ở châu Âu: England (vùng đất của những thiên thần), Deutschland (vùng đất của con người), Netherland (vùng đất thấp). Tiền tố đất/land/soil tại Đông Nam Á: Myanmar có lẽ hình thành từ tiền tố Mje nghĩa là đất/soil tiếng Burmese ngữ hệ Hán Tạng. Tương tự, Malaysia có tiền tố Malai nghĩa là đất/soil trong tiếng Tangkhulic hệ Hán Tạng vùng Manipur, Ấn Độ.

Cũng trong ngữ hệ Hán Tạng, đất/soil/earth ở tiếng Darang (Tây Tạng) đọc là: [khala:i / khɯlɑi]. Tiếng Yidu Lhoba (Trên cao nguyên Tây Tạng): [khɯlɑi]. Tiếng Kiranti, Nepan: [kha]. Tiếng phía đông Kiranti: [kham/akhuma]. Đây chính là âm của chữ Hán Khu 區: thời Thương đọc là [kho], Chu [kho], Tây Hán [khwa], Đông Hán [khwa]. Người Hoa Hạ đã trừu tượng hóa đất/land/soil bằng công thức: Khu區 (vùng đất) + Qua 戈 (vũ khí bảo vệ) -> Vực 或 (chỉ quốc gia) + Vi 囗 (tường thành) -> Quốc國 (quốc gia).

Nếu người Hoa Bắc gọi tổ quốc là Sơn Hà (đất nước), người Hoa Nam lại đảo ngược thành Giang Sơn (nước đất). Trong 5 tỉ chữ Hán từ các sách vở Trung Quốc đã số hóa tại Chinese Text Project, từ nhà Hán trở về trước, Sơn Hà 山河 được dùng 47 lần, Giang Sơn 江山 chỉ xuất hiện 8 lần. Từ nhà Ngụy trở về sau Sơn Hà được dùng 386, Giang Sơn vẫn thấp hơn và ở mức 357 lần. Thống kê này ghi nhận ảnh hưởng ngôn ngữ phía nam lên phía bắc, suốt quá trình nam tiến của người Trung Quốc.

Từ đó chúng tôi kết luận tiền tố chỉ ý niệm sơ khởi của quốc gia ở phương nam sẽ phải tồn tại hình thức Nước, vùng Nước, bằng chứng vững chắc nhất đã thấy tại Việt ngữ. Theo nhu liệu ngữ hệ Austronesian, dạng proto của Nước là một từ đa âm [danum], tiếng Formosa phía bắc đảo Đài Loan vẫn đọc là [lanum]. Khi đơn âm hóa để phân bổ vào những nhánh nhỏ, nó hình thành các chi: [*ɗaak] (tiền Mon Khmer). [daik] (Mon).). [Da] và [Dak] của một số tộc người gốc Austronesian trên Tây Nguyên Việt Nam vẫn dùng nghĩa là nước, vùng nước, sông suối nhưng hàm ý xứ sở. Và cuối cùng là [num – nạm – nụm – nậm] (Thái Tráng). Trải qua mấy ngàn năm biến âm rất đa dạng, và có thể bị tác động bởi ngữ hệ Hán Tạng, người Việt ngày nay đọc water và country đều dưới âm Nước.

  1. Âu và Việt

Tại lưu vực Dương Tử từ phía nam tỉnh Hà Nam đến châu thổ sông Hoài và Giang Đông, âm [wa] và [wat] là tiền tố đứng trước các quốc danh xuất hiện dày đặc trong sách sử Trung Quốc. Sách Dật Chu Thư liệt kê tên các tiểu quốc phía nam đầu thời Thương: 漚深 Âu Thâm, 越漚 Việt Âu, 甌鄧 Âu Đặng. Các chữ Âu này dù dị tự nhưng chỉ mang âm [wa], Việt có âm [wat]. Qua thời Chu rồi Tần và Hán, các tiền tố Vu于, Ư 於 và Ô 烏 đều mang âm [wa] rất thịnh hành đứng trước tên đất, tên nước như: Ô Hử (bộ tộc), Vu Việt, Ư Việt, Ô Thương, Ô Trình, Ư Lăng, Vu Đồ, Vu Tiềm… Sau đó Âu và Việt tiếp tục chia tách, sáp nhập, tạo nên các xứ sở: Đông Âu, Tây Âu, Tây Vu, Đông Việt, Nam Việt, Âu Lạc… Sự tồn tại cặp Âu Việt và Việt Âu càng khẳng định âm Âu và Việt có mức độ giống nhau khá cao.

Nhìn nhận thoáng qua, nhiều người đã cho rằng [wa] và [wat] là trợ từ ngữ khí và không mang nghĩa. Tuy nhiên khi đi sâu vào nhu liệu ngữ hệ Hán Tạng, chúng tôi thấy âm [wa] khớp hoàn toàn với âm chỉ nước và mưa trong tiếng Kiranti cũng như Newar (Nepan) và rất gần gũi với các nhánh Lolo [ue] (mưa) và [waji] (máng nước), Miến Điện [rwa] (mưa), Tạng [uà] (mưa) và [wa] (máng nước), Kuki – Chin [waa] (sông). Đặc biệt chữ Vũ 雨 nghĩa là mưa trong Hán ngữ có âm cổ đại cũng là [whá], tuyệt đối tương đồng khi đọc lên vì chúng chỉ khác nhau âm h chỉnh độ mở của khẩu hình.

Đến đây đã xuất hiện khả năng các vùng đất hai bên bờ hạ lưu Dương Tử cũng từng trừu tượng hóa nước, vùng nước để trở thành cương thổ, lãnh thổ hoặc quốc gia.

Viet_kimvan_tieutrien

Đầu tiên chúng tôi sẽ xét đến từ Việt trên thanh gươm ngài Bá vương Câu Tiễn (hình trên): Nó gồm hai bộ phận. Bên trái là chữ Ấp bao gồm vòng tròn phía trên chỉ một vùng đất, dưới là hình nhân, ý nói tụ cư. Phần này ý chỉ quốc gia sơ khởi. Bên phải là chữ Việt戉 mang âm Việt, tức [wat] vào thời Thương – Chu. Nó hoàn toàn là một chữ khác với Việt 越 bộ Tẩu, nghĩa là vượt qua, dù đồng âm.

Ở phương diện âm, chữ Việt bộ Ấp thừa âm [t] so với âm chỉ nước và mưa [wa]. Tuy nhiên nó lại khớp ý với chữ Vực或 Hoa Hạ. Chữ Việt 戉 là một loại binh khí cổ điển hình dạng giống chiếc rìu, cũng thể hiện chủ quyền quốc gia sơ khởi như chữ Qua戈 trong chữ Vực或.

Sự lệch âm này chắc chắn đã khiến người Hoa Hạ đọc tên nước Việt hơi khác với chính người Việt. Từ đó mới xuất hiện hàng loạt chữ [wa] đồng âm được người Hoa Hạ ở các khu vực khác nhau tạo thành tiền tố chỉnh âm hoặc bổ âm cho Việt. Đó chính là Âu, Ư, Vu. Âu Việt, Ư Việt, Vu Việt trong sử sách là một nhưng đã được ký âm nhiều cách. Âu, Ư, Vu và cả Ô nữa, đều đồng âm với từ tố Nước [wa]. Nói cách khác, chúng hoàn toàn có thể đã được trừu lượng hóa lên thành quốc gia ở vùng Giang – Hoài, bằng âm chỉ nước và mưa trong ngữ hệ Hán Tạng.

Chắc hẳn khi nhà Tần thống nhất chữ viết, ý nghĩa là một quốc gia có chủ quyền của chữ Việt bộ Ấp đã được các học giả Hoa Hạ để ý. Hậu quả là họ đã chuyển tất cả những chữ Việt bộ Ấp trên sách vở qua bộ Tẩu mãi mãi. Ý chí độc lập và hùng khí Đại Việt ở cửa sông Dương Tử chìm vào bóng tối, ít nhất là trên tự nghĩa,  hơn 2200 năm qua!

Cũng dưới thời đại của vua Tần, Việt bổ Tẩu trở thành thành tố của khái niệm Bách Việt trong sách Lã Thị Xuân Thu. Nó phiếm chỉ tất cả các tiểu quốc hoặc các liên minh bộ lạc lạc hậu vùng Giang nam. Nhà Hán thay nhà Tần và ở thời Tây Hán, họ khai sinh thuật ngữ Lạc Việt.

  1. Lạc Việt

Cách đây gần 20 năm, chúng tôi đã có những tháng năm trai trẻ thật đẹp đẽ, rong ruổi trên vùng Tây Nguyên và Đà Lạt. Khi tìm hiểu các địa danh Dalat, Dak Nong, Dak Min, Dak Nhim, Dak Song… ký âm bằng Pháp ngữ, chúng tôi đã lờ mờ nhận ra sự gần gũi của chúng với Lạc Việt.

Sau này tiếp xúc với “Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc”, của Nguyễn Kim Thản, Vương Lộc, tạp chí KHXH, 1974; chúng tôi đã tin Lạc 駱 trong Lạc Việt mang nghĩa là Nước như giả thiết của tài liệu. Các tác giả đã căn cứ trên nhóm từ Lạc điền, Lạc dân, Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc vương và đi tìm âm tương ứng ở bắc bộ Việt Nam, một xóm rất nhỏ của ngôn ngữ Austronesian. Do nhu liệu quá ít, nên lý luận hơi gượng gạo, chưa kể việc họ không để ý đến sự trừu tượng hóa từ tố Nước.

Trực giác nói với chúng tôi âm Nước cổ đã được người Hán ký âm bằng Hán tự thành Lạc 駱, nhưng cuối cùng, mãi đến hôm nay các chi tiết và công cụ ngữ âm học mới được tập hợp đầy đủ để chứng minh điều này.

Bám vào những dòng sông 

Đi đến không gian Lạc Việt, chúng tôi phải bám vào Trường giang và Hồng hà, bởi Hán sử đã nhắc đến người Lạc Việt phía bắc tận Kinh Châu, ở giữa là Quảng Tây và cuối cùng tại châu thổ sông Hồng.

Chữ Hán 江 giang chỉ sông Trường giang, từ thời Chu đến Minh đọc là [krōŋ]. Đó chính là âm tiền Mon Khmer, mẹ đẻ của từ [Sông] trong tiếng Việt. Khi người phương nam còn làm chủ con sông Trường Giang, họ gọi các nhánh nhỏ đổ vào sông mẹ bằng một âm gì đó mà người Hán ký âm thành Đà沱. Âm Tây Hán trở về trước của Đà沱là [l(h)āj], Đông Hán là [l(h)ǟ] và Đường âm là [d(h)ā]. Đây là định nghĩa của Đà 沱trong sách vở Trung Quốc: ở miền nam sông lớn gọi là Giang, sông nhánh gọi là Đà. Tuy nhiên chúng tôi nhìn rộng hơn, Đà沱có lẽ chỉ sông nhỏ, sông nhánh, suối lớn. Dalat (dòng suối của người Lat) và phụ lưu Đà giang của Hồng hà chứng minh điều đó. Sau rốt, Đà 沱 trong một câu Kinh Thi “月離于畢,俾滂沱矣 – Nguyệt li vu tất, tỉ bàng đà hĩ” lại có nghĩa là mưa lớn, nhiều nước.

So sánh các âm qua các thời kỳ của chữ Hán Đà沱 với âm chỉ Nước tiền Mon Khmer [*ɗaak] ở trên, chúng tôi thấy nó gần như đồng nhất với nhau. Nói cách khác Hán âm đã tuân thủ âm bản địa của Đà 沱 và chúng là một tại Đường âm.

Và từ chỉ quốc gia dùng tiền ngữ nước, trừu tượng hóa nước để thành quốc gia đầu tiên mà chúng tôi đã tìm thấy chính là Đô都. Vì nhu liệu của S. Starostin không có liệt kê lịch sử ngữ âm của Đô. Chúng tôi phải đi đường vòng: Tự điển ghi nhận Đô đọc là Đương Cô Thiết (當孤切), nghĩa là nói lái thành Đô Cương và giữ Đô lại. Từ đây chúng tôi tra lịch sử ngữ âm của Cô 孤 và lấy nguyên âm của nó. Từ thời Chu đến Đông Hán sẽ là nguyên âm A, nghĩa là Đô lúc ấy đọc là Đa. Đời Đường tương ứng nguyên âm Ô, lúc này nó là Đô. Hoán chuyển A thành Ô chúng tôi có vô số ví dụ. Như chữ Phụ 父, Hán âm của nó là [bá] và Đường âm là [bwó], tức Ba – Bố, và Mai – Mối, Ngạt – Ngột, Hạt – Hột, Ang – Ông (từ翁 cũng chỉ cha trong tiếng Hán).

Bộ Ấp trong chữ Đô 都 ghi nhận nghĩa của từ Đô là quốc gia. Chu Lễ viết: Cự quốc ngũ bách lý vi đô – Nước rộng năm trăm dặm gọi là Đô. Đa/Đô 都 không có trong giáp cốt văn, rõ ràng đây là ngôn ngữ Dương Tử đã được người Hoa Hạ ký âm và sử dụng muộn nhất là từ thời Chu.

Lạc Việt

Lạc Việt chỉ bắt đầu xuất hiện vào thời Tây Hán. Chúng ta có 3 chữ Lạc tạo nên Lạc Việt: 雒越 , 駱越 , 貉越. Đây chắc chắn là Hán tự ký âm phương ngữ Lạc Việt. Ba bộ chỉ ý nội dung mang tính miệt thị: 隹 chuy, một giống chim. 馬 mã, là ngựa. 豸trĩ, một loài sâu. Người ta dùng một chữ duy nhất chỉ âm là 各 các. Từ thời Chu đến Minh, âm Các đều đọc là [kāk]. Chúng tôi không khớp nối được với Đà 沱. Tuy nhiên khi dùng một chữ đồng âm với các chữ Lạc trên, bộ thủy, tên một con sông ở Hoa Bắc thì sự tương đồng lại hiện ra: Lạc 洛 Đông Hán trở về trước đọc là [rhāk], trở về sau đọc là [lhāk] hoàn toàn khớp với âm Đà 沱 Đông Hán là [l(h)ǟ].

Như vậy Lạc trong Lạc Việt là lần ký âm thứ hai chữ Đà 沱 chỉ nước, sông nhánh hay vùng nước đã được trừu tượng hóa thành xứ sở của một bộ lạc. Lần thứ nhất là chữ Đa/Đô都, dùng cho nước nhỏ. Với Lạc Việt, chữ Lạc dùng chủ yếu cho các bộ lạc còn chậm phát triển. Những ngữ ý miệt thị rất đáng trách bị lạm dụng, chắc chắn đã được viết ra bởi một viên thư lại Hán triều thiếu tư cách, phẩm giá và tri thức. Chúng không thể biện hộ dù theo Hán Thư, thời Tây Hán có dạo người ta kiêng bộ Thủy, là hành khắc với bản mệnh Hỏa của triều đình, dựa vào lối giải thích mê tín của thuyết ngũ hành.

Khi Việt không còn là tên riêng của nước Việt ở cửa sông Dương Tử, từ bộ Ấp chỉ quốc gia, nó chuyển qua bộ Tẩu và biến thành từ phiếm chỉ các nhóm bộ lạc hoặc tiểu quốc giang nam. Người Hán đã căn cứ trên tiền ngữ chỉ ý niệm quốc gia của họ để đặt tên cho phân nhánh Thái có gốc tích từ Điền Trì ở Vân Nam xuôi xuống Trường giang, Tây giang và Hồng hà, chủ nhân văn hóa trống đồng. Lạc Việt ra đời từ đó.

  1. Kết luận

Các biện giải chữ Hán ở đây dựa vào nghiên cứu lịch sử ngữ âm của S. Starostin, chúng tôi tin rằng chúng sẽ ngày càng hoàn thiện hơn, cũng như chưa chắc chuẩn xác tuyệt đối. Kết luận của bài viết này nên được tham khảo và tiếp tục đi sâu hơn.

Chúng ta không thể tìm một sự tương đồng tuyệt đối khi dùng ngôn ngữ này ký âm một ngôn ngữ khác, đặc biệt là với chữ Hán đơn âm tiết, một âm thường là cách đọc của rất nhiều chữ. Chẳng hạn từ tiếng Anh Europe được người Hán ký âm là Âu Châu 歐洲 (ōu zhōu), chỉ hao hao giống âm gốc mà thôi. Do đó tỉ lệ tương đồng các Hán tự ký âm đã liệt kê trên đây là rất cao, rất đáng chú ý.

Lạc Việt và Âu Việt là hậu duệ của nền văn minh sông nước Dương Tử với đỉnh cao Lương Chử không may đã bị diệt vong vào năm 2200 BC vì đại hồng thủy. Do đó các tên gọi của chúng có dính dáng đến tiền tố nước là rất hợp lý. Nếu các luận cứ trên đây đúng, thì đáp số của các thuật ngữ lịch sử liên quan hết sức giản dị. Và hy vọng chính sự giản dị, sẽ đem đến tính thuyết phục cho khảo cứu này: Việt bộ Ấp là một trong những chữ Nôm đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Tuổi đời của nó trẻ nhất là 2500 năm.

  1. Âu Việt = Quốc gia hình thành từ các Nước (Việt) nhỏ vùng Giang – Hoài.
  2. Việt Nam = Nước Nam. Nó tương đương với Southern Land nhưng không tương đồng như trước đây chúng tôi đã suy luận.
  3. Lạc Việt = Các bộ lạc tiền Thái – Tráng, có điểm chung là đều trừu tượng hóa xứ sở của mình từ từ tố Nước (Da, Dak).

@5.1.2018 T.T.Du