Tựa bản thảo: KHẢO CHỨNG TIỀN SỬ VIỆT NAM – Researching of Vietnam Prehistory – Sự kết hợp đầu tiên và duy nhất của Thiên văn, Thư tịch, Khảo cổ, Ngôn ngữ, Văn hóa và Di truyền để khám phá Việt sử.

Bao gồm 111.333 chữ/từ/âm tiết, 206 trang A4 cỡ chữ Calibri 12. Trên 40 hình ảnh, bản đồ minh họa. Email tác giả: truongthaidu@gmail.com

Contents – Mục lục

Tiền dẫn

Phần mở đầu

Phần 1: Nam Giao, Giao Chỉ, Tượng quận, Cửu Chân và Nhật Nam là gì?

  1. Khái lược ngôn ngữ và tàng thư.
  2. Nam Giao 南交 và Chữ Giao bộ Đầu [亠]
  3. Nam Giao 南郊 – Chữ Giao bộ Ấp邑
  4. Nam Giao Bộ Đầu và Nam Giao Bộ Ấp là một
  5. Giao Chỉ 交阯 là gì?
  6. Tượng quận 象郡, thuật ngữ thay thế cho Giao Chỉ?
  7. Giao Chỉ thời Hán
  8. Cửu Chân 九真 và Nhật Nam 日南
  9. Kết luận

Phần 2: Khảo sát Việt sử trước năm 43 sau Công nguyên

  1. Văn minh Dương Tử, lãnh thổ, di truyền và ngôn ngữ.
  2. Tự nghĩa của Âu Việt và Lạc Việt
  3. Lõi Việt ngữ – Các âm chỉ song thân sinh thành
  4. Nguồn gốc Vân Nam của trống đồng?
  5. Dạ Lang, Văn Lang và Hùng Vương
  6. Dấu vết Totem
  7. Các nét đặc trưng Âu Việt
  8. Âu Lạc là gì?
  9. Ước đoán những gì đã diễn ra tại Việt Nam từ năm 111 BC đến 43 AD
  10. Người Việt Nam từ đâu đến?

Phụ lục 1: Một số sử liệu hữu quan.

  1. Tây Nam Di Liệt Truyện
  2. Đông Việt Liệt Truyện
  3. Nam Việt Liệt Truyện
  4. Nam Man Tây Nam Di Liệt Truyện
  5. Thần thoại: Thần Cung Bảo Kiếm

Phụ lục 2. Khái lược thiên văn và thiên văn cổ đại Trung Hoa.

  1. Khái lược
  2. Thiên văn học cổ đại Trung Hoa
  3. Các hình thức, tên gọi cột chỉ thị bóng nắng (gnomon) và ống ngắm bằng trúc
  4. Trái đất hình bán cầu?
  5. Hệ tọa độ sơ khai của mặt đất và bầu trời
  6. Quan hệ giữa tọa độ địa lý với chiều cao cột thổ khuê và độ dài bóng nắng
  7. Khái niệm địa trung, một cách giải thích nội hàm tên gọi Trung Quốc
  8. Di tích đài quan trắc thiên văn hậu kỳ đồ đá mới ở trung lưu Hoàng Hà
  9. Chén thánh của văn minh Trung Hoa nhìn từ thiên văn
  10. Thiên văn và toán học có thể soi sáng lịch sử
  11. Thiên văn khởi sinh tôn giáo độc thần.
  12. Kết luận

Phần Mở Đầu

Dưới đây là nguyên văn trang đầu tiên của quyển quốc sử Việt Nam đầu tiên còn lưu giữ được cho đến ngày nay, đó là An Nam Chí Lược của Lê Tắc, được viết vào khoảng năm 1335. Sách này nằm trong bộ sử thứ chín của “Khâm định tứ khố toàn thư” nhà Thanh. Lê Tắc vốn gốc họ Nguyễn ở khu vực Thanh Hóa ngày nay, hậu duệ của Thứ sử Giao Châu Nguyễn Phu thời Đông Tấn (317 – 420).

古南交周號越裳,秦名象郡。秦末,南海尉趙佗擊併之,自立國僣號。西漢初,髙帝封為南越王。歴數世其相吕嘉叛,殺其王及漢使者。孝武遣伏波將軍路博德平南越,滅其國,置九郡,設官守任。今安南居九郡之內,曰交阯、九真、日南是也。後歴朝沿革,郡縣不一。五季間,愛州人吳權領交阯。後丁、黎、李、陳相繼篡奪。宋因封王爵。官制刑政稍效中州。其郡邑或仍或革,姑槩存之。

Âm Hán Việt: Cổ Nam Giao Chu hiệu Việt Thường, Tần danh Tượng quận. Tần mạt, Nam Hải úy Triệu Đà kích tính chi, tự lập quốc thiết hiệu. Tây Hán sơ, Cao đế phong vi Nam Việt vương. Lịch số thế kì tương Lữ Gia bạn, sát kì vương cập Hán sứ giả. Hiếu vũ khiển Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức bình Nam Việt, diệt kì quốc, trí cửu quận, thiết quan thủ nhậm. Kim An Nam cư cửu quận chi nội, viết Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thị dã. Hậu lịch triều duyên cách, quận huyện bất nhất. Ngũ Quý gian, Ái châu nhân Ngô Quyền lĩnh Giao Chỉ. Hậu Đinh, Lê, Lý, Trần tương kế soán đoạt. Tống nhân phong vương tước. Quan chế hình chánh sảo hiệu trung châu. Kì quận ấp hoặc nhưng hoặc cách, cô khái tồn chi.

Dịch nghĩa: Cõi Nam Giao ngày xưa, nhà Chu gọi là Việt Thường, tên thời Tần là Tượng quận. Cuối Tần, quan úy quận Nam Hải là Triệu Đà đánh chiếm thôn tính, tự lập quốc và dùng đế hiệu. Đầu Tây Hán, Cao đế Lưu Bang phong Triệu Đà làm Nam Việt vương. Sau khi trải qua nhiều đời, thừa tướng Lữ Gia ở đấy làm phản, giết Nam Việt vương và sứ giả nhà Hán. Vũ đế chí tôn sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức bình định Nam Việt, diệt quốc, trí đặt chín quận, thiết lập quan chức trấn nhậm. Nước An Nam ngày nay từng thuộc chín quận ấy, bao gồm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Sau khi trải qua sự thay đổi của nhiều triều đại, quận huyện không còn tương đồng. Đến thời Ngũ Quý (907 – 960), Ngô Quyền, người Ái châu thống lĩnh Giao Chỉ. Sau thì đến các họ Đinh, Lê, Lý, Trần nối nhau tiếm đoạt. Nhà Tống dựa vào đó mà phong vương tước. Quan chế pháp lệnh hình luật (ở trung ương) mô phỏng khá giống Trung Quốc. Bậc quận huyện thì có chỗ chiếu theo, có nơi khác biệt, (sau đây) tạm sơ lược lưu biên.

Phân tích: Về cơ bản, đây là quan điểm sử học Việt Nam thời Trần. Các tài liệu lịch sử phong kiến cũng như hiện đại sau này hầu như tiếp thu hoàn toàn nội hàm ở đây để diễn giải quá khứ dân tộc. Hai chỗ chúng tôi gạch chân phía trên là hai sai lầm của sử gia, dẫn đến việc suy đoán cổ sử Việt Nam thiên lệch và thiếu logic.

  1. Tính bản địa: Châu thổ sông Hồng vốn được gọi là quận Giao Chỉ từ thời Tây Hán, chín quận phía nam trong đó có quận Giao Chỉ lại được gọi là Giao Chỉ bộ. Do đó ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam được cho là Nam Giao Chỉ (bộ). Nó tương đương với cụm chữ Hán ở “Nam Man Tây Nam Di Liệt Truyện” trong Hậu Hán Thư: “Giao Chỉ chi nam”. Từ đó các sử gia phong kiến Việt Nam thống nhất cho rằng Nam Giao Chỉ chính là Nam Giao, một địa danh trong sách Thượng Thư ở tận thời Nghiêu Thuấn cách đó hơn 3000 năm. Nghĩa là trong suốt 3000 năm, người Việt, nước Việt hầu như ở một chỗ, không thay đổi. Nói cách khác, trong khoảng thời gian đó biên giới phía nam Trung Hoa là bất biến.
  1. Tính hư cấu: “Nam Man Tây Nam Di Liệt Truyện” trong Hậu Hán Thư chép: 交阯之南有越裳國Giao Chỉ chi nam hữu Việt Thường quốc. Nghĩa là phía nam Giao Chỉ có nước Việt Thường. Sự kiện Việt Thường này được nhắc đến muộn nhất là trong sách Trúc Thư Kỷ Niên xuất lộ từ một ngôi mộ thời Chiến Quốc. Khớp nối Việt Thường, nhiều khả năng là một từ phiếm chỉ được sáng tác trong sách dạy làm vua triều Chu, với vùng phía nam Giao Chỉ bộ là cách tư duy bất chấp thời gian và không gian.

Hai đặc tính trên đây của cổ sử Việt Nam, sẽ bị bác bỏ bằng tất cả các phương tiện có thể khảo sát lịch sử. Đặc biệt chúng tôi sẽ bóc tách lịch sử thiên văn học Á Đông khỏi lịch sử Trung Quốc, từ đó soi chiếu ngược vào những khoảng trống còn mơ hồ. Điều này có tác động và hiệu quả tương tự như Jared Diamond đã dùng Sinh vật học kiến giải lịch sử nhân loại trong “Guns, Germs, and Steel” hay không, chúng tôi chưa dám chắc. Nhưng ít ra nó đã phần nào chứng minh:

Nam Giao (南交) là tiền thân của Nam Giao (南郊). Nam Giao (南交) đầu tiên vốn dĩ là một đài quan trắc thiên văn có niên đại khoảng 2100 năm trước công nguyên. Còn Nam Giao (南郊) là đàn tế trời muộn nhất là từ thời Chu. Hậu thân cuối cùng của Nam Giao chính là Thiên Đàn ở Bắc Kinh. Tại Việt Nam, nó vẫn giữ nguyên tên gọi Nam Giao.

Giao Chỉ (交阯) có thể là khái niệm phái sinh từ Nam Giao, nó nói về vùng đất tiếp giáp phía nam vương quốc tối cổ của Chuyên Húc, vị đế thứ hai trong năm vị đế thuộc giai đoạn huyền sử từ năm 2697 TCN đến 2184 TCN.  Giao Chỉ thời Nghiêu Thuấn (舜尧 , khoảng năm 2100 BC) có lẽ nằm ở phía nam làng Đào Tự, huyện Tương Phần, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Giao Chỉ đầu thời Chu nhiều khả năng chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc). Cuối thời Chu (năm 239 BC) Giao Chỉ có thể tạm xác định tại khu vực Quý Châu – Hồ Nam ngày nay. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, Giao Chỉ đầu thời Tây Hán là toàn bộ lãnh thổ cũ của Nam Việt và bắc bộ Việt Nam. Sau năm 81 BC Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ và phân biệt rõ ràng Giao Chỉ bộ và quận Giao Chỉ.

Tượng quận (象郡) nên được hiểu đồng nghĩa với Giao Chỉ, vùng đất chưa được khám phía nam nước Tần, chỉ mới được định vị bằng thiên văn.

Cửu Chân (九真) là gốc trời, chân trời, khái niệm tương đương với thuật ngữ Xích Đạo ngày nay, nơi cột thổ khuê nửa năm (từ ngày xuân phân đến thu phân) có bóng mặt trời nằm ở phía nam, nửa năm còn lại (từ ngày thu phân đến xuân phân) có bóng mặt trời nằm ở phía bắc.

Nhật Nam (日南) ban đầu là khái niệm về vùng đất phía nam Cửu Chân, nó tương đương với phần bán cầu nam từ nam chí tuyến trở xuống, nơi cột thổ khuê luôn luôn có bóng mặt trời ở phía nam. Nói cách khác nó là hình dung vùng đất phía nam đối xứng với Hoa Hạ qua đường xích đạo.

Nam Giao南交 – Giao Chỉ交阯 – Tượng quận象郡 – Cửu Chân九真 – Nhật Nam日南là một hệ thống khái niệm thống nhất với nhau và liên quan mật thiết đến thiên văn học cổ đại Trung Hoa.

Bằng cách truy xuất và so sánh từ vựng trong các ngữ hệ Hán Tạng và Austronesian, định vị chúng ở các bản đồ gene, điều chỉnh bằng khảo cổ, văn hóa và thư tịch, chúng tôi đã đưa ra nguyên nghĩa của các thuật ngữ quan trọng liên quan đến cổ sử Việt:

  1. Việt và Âu đồng âm ở thời Hán trở về trước, đều là Hán tự ký âm bản ngữ Giang – Chiết, nghĩa đen là Nước, vùng nước, nghĩa bóng là quốc gia. Chúng tương đồng với Quốc nghĩa đen là đất/land/earth/soil, nghĩa bóng là quốc gia. Từ đó suy ra Việt Nam nghĩa là Nước Nam hay Southern Land.
  2. Lạc tương đương và có quá trình ra đời tương tự như Việt và Âu, nhưng thuộc về không gian tiền Thái Tráng, khớp với vùng đông bắc của bản đồ ngữ hệ Thái Tráng hiện nay. Khi kép hóa từ tố Âu và Lạc, thuật ngữ Âu Lạc được hình thành. Nó cũng chính là tên bản địa của vương quốc Nam Việt thành lập bởi Triệu Đà. Lạc Vương, do đó nghĩa là quốc vương; Lạc Hầu – Quốc Hầu; Lạc Dân – Quốc Dân; nhưng Lạc Điền nên được xem như ruộng lúa nước, hơn là Quốc Điền.
  3. Hùng Vương là một từ được sáng tạo muộn hơn Lạc Vương rất nhiều, từ tố của nó là Quân Vương, chỉ những lãnh tụ khai quốc bất kể gốc Âu Việt hay Lạc Việt. Hùng Vương tương tự như Viêm Hoàng của người Hoa Hạ, hay cụ thể và dễ hiểu hơn là Founding Fathers – Các tổ phụ lập quốc của người Mỹ.

Hệ quả của kết luận này sẽ dẫn đến việc hiểu cổ sử Việt Nam trước thời Hai Bà Trưng sẽ rất khác với sách vở từ hiện tại trở về quá khứ. Nền tảng cổ sử Việt Nam sẽ bị thách thức với tinh thần khoa học và xây dựng cao nhất.

Ở lĩnh vực di truyền học, trong hơn mười năm trở lại đây, hội địa lý quốc gia Hoa Kỳ (National Geographic) đã bán dịch vụ tìm tổ tiên cho một số lượng khá lớn người Việt muốn đi đến sự thật cuối cùng. Họ đa số là Việt Kiều sống ở một số nước phương Tây. Các mẫu gene Việt đã cho ra kết quả không nằm ngoài dự đoán của chúng tôi tại quyển sách này: Người Kinh ở Việt Nam có 57% gene từ tổ phụ Đông Bắc Á, 43% gene của tổ mẫu Đông Nam Á.

Ngày 3.10.2017, tạp chí khoa học hàng đầu thế giới Nature (phiên bản trực tuyến) đã công bố kết quả một công trình nhân chủng học lớn, hội tụ 13 nhà nghiên cứu quốc tế có tên tuổi trong đó có ba cái tên Việt Nam: S. Pischedda, R. Barral-Arca, A. Gómez-Carballa, J. Pardo-Seco, M. L. Catelli, V. Álvarez-Iglesias, J. M. Cárdenas, N. D. Nguyen, H. H. Ha, A. T. Le, F. Martinón-Torres, C. Vullo & A. Salas: Phylogeographic and genome-wide investigations of Vietnam ethnic groups reveal signatures of complex historical demographic movements. Các tác giả kết luận: “From an anthropological point of view, the overall scenario is that present-day Vietnamese have a dual ethnic origin: a major component coming from South of China, superimposed to a minor component originating from a Thai-Indonesian composite. The Nam tiến has probably been key for the configuration of the genome architecture of present-day Vietnamese”.

“Đứng trên quan điểm nhân chủng học, kịch bản chung là người Việt Nam ngày nay có nguồn gốc dân tộc kép: thành phần chính đến từ Hoa Nam, chồng lên thành phần phụ từ hợp chủng Thái – Indonesia. Nam tiến có lẽ là từ khóa cho sự mô tả cấu trúc di truyền của người Việt Nam hiện đại.”

Các hướng tiếp cận đã bổ sung cho nhau, giúp chúng tôi mạnh dạn tóm tắt lịch sử Việt Nam như sau: Trước năm 330 BC chủ nhân vùng đất từ bắc bộ Việt Nam đến Thanh Hóa – Nghệ An là các bộ tộc du canh du cư Austronesian, ngoại hình thấp lùn, da ngăm đen (giống người Chàm ngày nay). Khi Trang Kiểu đánh chiếm và ở lại làm vua vùng hồ Điền – Côn Minh – Vân Nam, một số bộ lạc tiền Thái Tráng (dáng người cao ráo, da trắng) ở đấy bỏ chạy theo sông Hồng và sông Mã xuống Việt Nam, hòa trộn với người Austronesian bản địa, xây dựng văn hóa bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc Đông Sơn khá rực rỡ. Chủ nhân văn hóa này được Hán sử gọi là người Lạc Việt.

Ở thời điểm Công nguyên, người Hán bắt đầu thực dân hóa Việt Nam, đó là động lực và nguyên nhân cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng.

900 năm tiếp theo, Việt Nam là nơi hội tụ và hợp huyết của các nhóm người: Lạc Việt (da hơi ngăm, tầm vóc trung bình), Âu Việt con cháu Câu Tiễn di cư xuống từ lãnh thổ Mân Việt và Nam Việt cũ (da hơi sáng, tầm vóc trung bình, có tục cắt tóc xăm mình), quan binh người Hán viễn chinh đồn trú và tội nhân Hán đi đày hoặc lánh nạn (da trắng, cao lớn, đa số mắt một mí). Giới tinh hoa của xã hội Việt Nam khi ấy chắc chắn có dòng máu từ mẹ Lạc Việt nhưng mang đậm nét văn hóa Âu Việt và Hán.

Năm 938, Ngô Quyền ly khai khỏi Nam Hán, lấy tên cũ của Nam Hán là Đại Việt (năm 917) để dựng nước. Rõ ràng quốc danh Đại Việt hàm ý quyền lực Việt Nam khi ấy thuộc về người gốc Âu Việt và Nam Việt. Các họ Đinh – Lê – Lý – Trần tiếp nối sau đó có lẽ đều là người Việt Nam gốc Âu Việt hoặc Hán. Hậu quả là chính sử Việt Nam bắt đầu từ thời Trần đã đưa Triệu Đà làm vua khai quốc.

Đến thời Hậu Lê, hoàng gia gốc tiền Thái Tráng đầu tiên nắm quyền ở Việt Nam. Họ dần dần loại bỏ Triệu Đà khỏi sử sách. Người miền trong Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tĩnh (gốc tiền Thái Tráng chiếm ưu thế) không tin tưởng người phía bắc (nặng gốc Âu Việt và Hán). Sự kiện gia tộc Nguyễn Trãi bị tru di hoặc gia tộc tiền Thái Tráng của Mạc Đăng Dung được ưu ái, nên được nhìn dưới con mắt mâu thuẫn huyết thống và văn hóa, hơn là chính trị.

Cuối Minh đầu Thanh, chính trị trung ương bắc triều hỗn loạn, làn sóng di cư từ Hoa Nam xuống Việt Nam dâng cao. Thuyết Đại Việt của Lưu Nham từ năm 917 sống lại. Quang Trung có lẽ đã rất tin tưởng các đô đốc hải quân gốc Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông và Hải Nam của mình. Ông mơ đến một nước Đại Việt hùng cường bao gồm cả Lưỡng Quảng. Giả thuyết trên càng có căn cứ hơn với đề xuất của Gia Long với Thanh triều, đặt tên mới Nam Việt cho đế quốc của ông. Nam Việt chính là phiên bản Đại Việt xưa hơn, gắn với tên tuổi Triệu Đà.

Giải pháp Việt Nam của Gia Khánh vừa uyển chuyển vừa khôn khéo loại trừ được mầm mống tư tưởng Đại Việt. Thập kỷ 30 của thế kỷ 20, Trung Quốc cũng đã phải đối mặt với một luận thuyết tương tự từ một quốc gia Đông Nam Á. Đó là thuyết Đại Thái, tuyên xưng lãnh thổ dân tộc Thái bao gồm cả Vân Nam và một số vùng đất Hoa Nam khác.

Ngày 2.9.1945 lãnh tụ Hồ Chí Minh khai sinh nước Việt Nam mới, kết thúc hơn một ngàn năm phong kiến. Tương tự như vua Nhật từng đặt niên hiệu MINH TRỊ, cụ Hồ đặt tên mình là CHÍ MINH. Minh Trị hay Hướng Minh/Chí Minh đều xuất phát từ một câu Chu Dịch: NAM DIỆN HƯỚNG MINH NHI TRỊ. Nó nói lên ý chí độc lập của một quốc gia có chủ quyền bên cạnh Trung Hoa, chia sẻ cùng đất nước của Chu Công các giá trị văn hóa phổ quát cũng như lịch sử và di truyền của tổ tiên.

————————————————————————————————–

Abstract

This book affirms that Nan Jiao 南交 , Jiao Zhi 交阯 , Xiang Jun 象郡 , Jiu Zhen 九真, and Ri Nan 日南 are united concepts related to Chinese Classical Astronomy. While researching the meaning of Nan Jiao, Jiao Zhi, Xiang Jun, Jiu Zhen, and Rinan by using Chinese ancient astronomy, we accidentally figured out the non-superstitious meaning and how to establish the definitions of River Map 河圖, Lo Shu Square 洛書, Yin Yang 陰陽, Five Elements 五行 and Yijing 易經. According to the author, this might be the first time ever in the history of East Asia that the Chinese mysterious “holy grail” was discovered by using scientific method. Due to the digression of the book’s subject, the references are rough but they are more plausible and reliable than any illusory story that was put on the establishment of River Map, Lo Shu Square, Yin Yang, Five Elements, and Yijing.

The first meaning of Jiao Zhi 交阯 is the southern region located next to Nan Jiao南交. Next, Jiao Zhi 交阯 refers to a southern region sharing the border with the Chinese Empire. Within thousand years of southern expansion by different reigns, Jiaozhi located in Hubei of Western Zhou 西周. Before 239 BC, Jiaozhi located between Hunan and Guizhou. Until Eastern Han 東漢 time, Jiaozhi was officially appeared on the Chinese map as a province Jiaozhibu 交阯部 including Jiaozhi district 交阯郡  and eight other districts. During the reign of Qin 秦, Jiaozhi was Xiangjun 象郡. The Xiangjun region was confirmed as Jiaozhi by meaning and by astronomical pre-observation. Jiuzhen 九真 means “the root of the sun” which is similar to the Equator. Rinan 日南 (Sun south) means the southern region of the sun. In Rinan, the gnomon’s shadow is always located in the south, which is the Southern hemisphere from Tropic of Capricorn to South Pole.

By accessing and comparing vocabularies in the Sino-Tibetan and Austronesian languages, locating them in genetic maps with archaeological, cultural and bibliographic adjustments, we have figured out the meaning of important terms intimate to ancient Vietnamese history as presented below:

  1. Việt and Âu are homophones in the Han Dynasty and before, serving as transcriptions of Jiang – Zhe words by Chinese characters; originally and literally they mean water or water area, and their derivative sense is Country. They are similar to the word Quốc, which means earth/land/soil, and the derivative meaning of which is Country. Accordingly it can be inferred that Vietnam means Southern Country or Southern Land.
  2. Lạc 駱 is equivalent and has a birth process similar to that of Việt and Âu, but belongs to the Tai-Kadai linguistic sphere, which matches the northeast region of the present Tai-Kadai language map. Âu Lạc was formed as a result of the combination of Âu and Lạc. It was also the indigenous name of the kingdom of Nam Việt founded by Triệu Đà. Lạc Vương, therefore, means the king of the country; Lạc Hầu – the Marquess; Lạc Dân – The People of the country; but Lạc Điền should be understood as paddy field, rather than country’s field.
  3. Hung King 雄王 is a word created at a much later time than Lac King 駱王, its element Quân 君 simply refers to the Chief of the nation/tribe whether of Âu Việt or Lạc Việt origins. Hùng King as a term is similar to the Yan and Huang emperors of China, or, in a more specific and understandable comparison, equivalent to the Founding Fathers of America.

The above terms’ meanings will change the important details of China’s southern provincial history as well as Vietnam’s.

@1.2018 T.T.Du