NGUỒN GỐC BỘ SỐ VIỆT NGỮ
Tóm tắt: Bộ số Việt không phủ nhận sự liên đới Việt – Hán (số Không và Năm) mà còn thể hiện Việt tính Dương Tử rất mạnh (số Hai, Sáu, Tám, Chín). Trong khi đó số Một, Mười, Ba, Bốn, Bảy chỉ ra khả năng đây là các âm Trung Nguyên tối cổ, mãi tận thời Thương Ân, và không loại trừ phần lớn nhóm này có lõi Austronesian.
Bộ số Việt ngữ chắc chắn lưu tồn giá trị văn hóa – văn minh bất diệt của tổ tiên người Việt, hòa nhập nhưng không hòa tan. Nó bổ sung khía cạnh khoa học (thiên văn, toán học và lịch pháp) vào cụm phong tục tập quán phi Hán quen thuộc xưa nay (cắt tóc, nhuộm răng, ăn trầu, xăm mình…).
Chúng tôi vẫn chưa hiểu tại sao đại gia đình các dân tộc Thái – Tráng từ Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Việt Nam đến Lào và Thái Lan ngày nay đã phải dùng bộ số có âm Đường – Tống, trong khi người Việt Nam đã bảo tồn được số đếm từ bình minh lịch sử của mình.
Số không
Năm 1954 tại Trường Sa – Hồ Nam (đất Việt cổ bị sáp nhập vào nước Sở năm 334 BC) khảo cổ đã đào được một ngôi mộ táng Chiến Quốc. Bất ngờ trong mộ có 40 thanh tre (ảnh 1) là công cụ tính toán hậu thân của 64 số Dịch.
Năm 1986 tại Thiên Thủy Cam Túc lại đào được bộ toán trù Chiến Quốc tương tự. Từ đây lịch sử sử dụng các thanh tre làm số trên một bàn tính chia ô (ảnh 2) đã được viết lại: Nó ít nhất phải có muộn nhất cách đây trên 2500 năm. Số zero trên bàn tính thể hiện bằng cách bỏ trống, chữ là Không 空 (trống, rỗng) đồng nghĩa với âm gọi quẻ Khôn 坤 trong Việt ngữ (khôn nguôi = không nguôi); Mân âm Phúc Châu của Khôn 坤 và Không 空 đều là [kʰouŋ44].
Số một và mười
Chữ Mỗi 每 xuất hiện từ giáp cốt văn. Dựa trên các ngữ cảnh người ta thấy nó có hai cách dùng/đọc Mẫu 母 và Hối 悔. Edwin Pulleyblank tái tạo âm trung đại Mỗi tương đồng với tiếng Khmer chỉ số 1 [mwəj]. Mân âm Kiến Âu [mo21] đọc ra gần như [một], khớp với cổ âm của Mỗi theo Baxter – Sagart là [*mˤəʔ]. Mân âm Phúc Châu [muoi32] có độ tương đồng rất lớn với [mười]. Đây chính là Một, Mười và Mươi trong Việt ngữ.
Do đó từ Mỗi Một ngày nay người Việt vẫn dùng là một từ đẳng lập kết hợp bởi hai âm Hán cổ đại và trung đại.
Số Một thời Thương Ân tượng hình 1 ngón tay hay thẻ tre nằm ngang, số mười chỉ đổi vị trí thành thẳng đứng. Giả thiết của chúng tôi là âm chỉ số 1 sẽ dùng thanh khác để chỉ số 10. Chẳng hạn Mốt. Khi Mốt trong tiếng Việt chuyển qua Mười, Một vẫn giữ nguyên.
Chữ Mỗi còn vô tình hé lộ thêm khả năng bộ số của bát quái dịch nữa. Thật vậy, từ sự tương đồng âm giữa quẻ Khôn và số Không ở trên, nhìn vào nhị phân quẻ Khôn cũng đồng thời là số Không. Quẻ Càn trong Chu Dịch là số 1, quẻ số 1, không khớp với vai trò nhị phân số 7 nhưng tên Hối của nó (Khổng truyện: Ngoại quái viết Hối) lại liên quan đến Mỗi như là quẻ đứng đầu, số một! Bát quái có 8 số, người Việt đang lưu giữ 2 số (không và một) trong ngôn ngữ của mình. Quả là điều rất lạ lùng.
Số hai
Hàng trăm nhánh ngôn ngữ Austronesian dùng các âm [dua], [duo], [duwa], [duə]… chỉ số Hai, giống hệt tiếng Latin, Hy Lạp và Italia [duo]. Phụ âm đầu D đã bị chuyển sang T, cho ra [twā] tiếng Anh cổ gốc Đức, [twee] tiếng Hà Lan và cuối cùng thành ra [two] ở Anh ngữ ngày nay.
Tháp Babel có lẽ là có thật. Ngữ âm này cho thấy khi rời Tây Á, bầy người di cư ven biển từ nam Ấn Độ đến châu Á – Thái Bình Dương đã dùng âm chỉ số Hai phổ biến là [duo] hoặc đa âm [duwa]. Âm này đi vào Hán ngữ và Việt ngữ, thành chữ Đôi (Nôm) hoặc Đối 對 (Ngô Việt ngữ Ôn Châu hiện vẫn đọc chữ Đối bằng âm [tai42]). Do đó từ [song đôi] tại Việt ngữ là từ đẳng lập ghép bởi hai từ chỉ số Hai khác nhau (tiếng Thái và Lào dùng chữ Hán song 雙 chỉ số Hai).
Số hai viết bằng chữ Nôm: 台 hoặc 𠄩. Nó cho thấy phần biểu âm nằm tại chữ Hán Thai/Đài 台. Chữ này thêm bộ khẩu bên trái thành Hai/Hải 咍 (chê cười, vui vẻ). Mân âm hiện tại của Hai/Hải 咍 vẫn giữ nguyên cách đọc thời Đường [hai55] (đọc là Hai). Ở chữ Thái/Đại 大 (lớn), cùng âm khác thanh với Thai/Đài 台, chúng tôi thấy tiếng Lê Xuyên – Giang Tây bỏ âm [t], đọc thành [hai13] (gần như Hãi).
Quy luật biến âm đ/t trong Đá – Thạch, To – Đại, Thái – Đại, Thai – Đài, Duo – Two… ở cả châu Âu và Á Đông dẫn ra khả năng âm chỉ số Hai trong Việt ngữ có gốc từ âm [duo] khắp hoàn cầu, tuổi đời lên đến trên 40 ngàn năm, có trung gian phát triển lưu lại trong chữ Đối 對 (Đường âm) và cuối cùng được nắn giọng bởi Mân nam âm thành Hai chỉ khoảng 1000 năm trở lại đây mà thôi. Có thể tham khảo thêm từ Thái 采 nghĩa là ngắt hái (quả) qua tiếng Việt thành Hái.
Vì âm chỉ số Hai Việt ngữ đồng âm với địa chi Hợi 亥 ở Mân ngữ, cho nên con cháu người Mân nam tại miền nam Việt Nam mới gọi con bài Tây mang số Hai là con Heo.
Số bốn và số ba
Một bạn đọc facebook của chúng tôi đã gợi ý hệ từ nguyên châu Âu liên quan đến tính toán và bộ số: Calci (đá) -> Calcis (vôi) -> Calculus (tính toán). Digitus (ngón chân – ngón tay) -> Digitalis (số) -> Digit (số). Điều này chỉ ra rằng loài người cổ đại đã đếm bằng các ngón tay hoặc/và ngón chân của mình.
Chữ Hán Phù 扶 chỉ bốn ngón tay. Áp dụng quy luật biến âm B -> Ph thể hiện trong chuỗi [Bụt/Phật, Bún/Phở, Buồm/Phàm, Bụng/Phúc, Bay/Phi, Bất/Phi, Buồng/Phòng, Bơi/Phù 浮, Béo/Phì 肥…], có thể khẳng định cổ âm của Phù 扶 là Bốn.
Hơn nữa trong tiếng Tai Kadai, vẫn tồn tại âm chỉ số 4 bắt đầu bằng phụ âm Ph và P: [pa]/[pe]/[po]/[pu]/[pau] tại nhánh Kra (Ngật Ương); [fei5] tại nhánh Lakkja (Lạp Già) Quảng Tây.
Từ số bốn sẽ liền mạch đến số ba. Âm chỉ số 3 [ba] là cổ âm của chữ Phẩm 品. Chữ này (ảnh dưới) giáp cốt văn chỉ ba món tế cúng (Tam Sên 三 生 – Sên là âm Khách Gia của Sinh). Ngoài ra cũng có thể hiểu đây là ba cái mồm (khẩu), tức ba người, chỉ số nhiều, đông. Phẩm tiếp biến, khi sản xuất hay trồng trọt nhiều, đem bán, gọi là sản phẩm.
Âm Phẩm chỉ số ba vẫn còn được lưu giữ trong tiếng Thái Tráng nhánh Lakkja (Lạp Già) Quảng Tây, ký âm IPA là [fa:m1], nhánh Hlai (Lê tộc – Hải Nam) [fu3]. Hơn nữa, tiếng Miêu Dao cũng dùng âm [pa] để chỉ số 3. Nó cho thấy cổ âm này không phải độc quyền của Việt ngữ.
Số năm
Số năm chỉ hiện ra là cổ âm của Ngũ 五 khi chúng tôi sử dụng quy luật biến âm [Nh/N <-> Ng/Ngh] liệt kê ở bảng dưới.
Số sáu và số chín
Số 6 và số 9 Việt ngữ chính là số 6 và số 9 trong 12 chi, tức Tỵ 巳 và Thân 申. Âm [sáu] và [chín] hiện vẫn còn lưu giữ trong Mân âm Phúc Châu [søy242] (sồi) hoặc Kiến Âu [su44] (sú) và âm Khách Gia [ɕiŋ23] (chỉng) hoặc âm Lê Xuyên Giang Tây [ɕin22] (chin). Hán âm cổ của Tỵ tái tạo bởi Baxter–Sagart là [*s-[ɢ]əʔ]. Hán âm trung đại của Thân được Pan Wuyun và Edwin Pulleyblank tái tạo gần khớp với âm Khách Gia [ɕin].
Nghiên cứu lịch sử 5 ngàn năm ngôn ngữ Á Đông phải dùng tư duy toán học, nhìn ra được các giá trị động (movement value) cũng như nhiều biến cố lịch sử: Địa chi thứ 6 – Tỵ 巳 chính là số 6 trong tiếng Việt – tháng thứ 6 trong lịch thời Chu. Khi Hán vũ đế áp dụng lịch Thái sơ do Tư Mã Thiên tính toán vào năm 104 TCN, tháng 6 Tỵ trở thành tháng Tư/Tứ.
Tứ/Sáu chỉ là một cặp trong nhóm Dần/Thìn/Tỵ/Ngọ/Thân là tự nguyên của các số 1,3,4,5,6,9 trong tiếng Việt và tiếng Trung. Tự nguyên của âm Sáu, số 6 trong tiếng Việt lại là Tỵ 巳/Tư/Tứ 四.
Số bảy
Người Trung Quốc cổ đại (cả Dương Tử và Hoàng Hà) thờ phụng rất trọn vẹn, cả thần tiên và ma quỷ. Họ tế trời vào tiết Đông Chí và dành hẳn tháng 7 cho quỷ vương.
Đạo Giáo hình thành cuối thời Chiến Quốc, phát triển mạnh mẽ vào thời Hán đã cho ra đời hình tượng Quỷ vương Phất Kiết 鬼王甶孑 (hình trên – trái). Việc họ tạo chữ Phất 甶 chính là căn cứ cho tôi xác định nguồn gốc số 7 ở Việt ngữ: Dấu thập ở giữa là số 7 giáp cốt văn (hình trên – phải), phía ngoài tượng trưng mặt con quỷ. Đường âm của chữ này là Phất. Dùng quan hệ b->ph sẽ xác định cổ Hán âm của Phất phải bắt đầu bằng phụ âm B. Ngoài ra chữ Thất 匹 đồng âm với số 7 có Mân âm Phúc Châu đọc là [pʰɛiʔ23], dẫn tới nguyên âm tiếp sau B là [ɛi], khớp hoàn toàn số Bảy trong tiếng Việt.
Số tám
Không thể tìm thấy sự tương đồng âm [tám] với bất cứ ngôn ngữ nào, trong hơn 2000 tiếng nói ở châu Á – Thái Bình Dương, trừ tiếng Bolyu – Ba Lưu ngữ, [sa:m53] (đọc gần giống Sám). Ba Lưu là một dân tộc thiểu số sống rất biệt lập ở Quảng Tây – Quý Châu và trước đó có thể ở cả bờ nam Dương Tử. Người ta chưa xác định được dân tộc tính của nhóm cư dân này. Chúng tôi chắc chắn sẽ bỏ qua sự tương đồng đơn nhất nếu không có sự liên hệ của nửa bộ số Ba Lưu ngữ với bộ số Việt ngữ: Một [mə2], Ba [pa:i55], Bốn [pu:n53], Bảy [pe:i55], Tám [sa:m53] và Chín [ɕən53].
Đến đây lại phải tìm hiểu chữ Nôm để khảo Việt âm cận đại. Số Tám chữ Nôm 𠔭, gồm chữ Bát八 bên trái chỉ nghĩa (tám), chữ Sâm/Tham參 chỉ âm. Mân âm Áo Môn của Tham là gần [tám] nhất, bao gồm cả thanh sắc [ʦʰam55].
Tư duy analog sẽ kết luận tiếng Việt hoặc tiếng Ba Lưu là gốc của nhau. Chúng tôi lại cho rằng đây là một bằng chứng nữa hướng về khả năng tiếng Việt và tiếng Ba Lưu cùng có lõi Dương Tử.
Một lần nữa chúng tôi thấy chữ Hán trung gian giữa cổ âm/nghĩa chỉ số 8 và âm/nghĩa hiện đại là Tầm 尋 (đơn vị bát phân – chỉ độ dài bằng 8 thước).
Số một ngàn
Số 1000 tổ tiên chúng ta lấy số một của bát quái để gọi, hay có thể ngược lại. Biến âm K-G-Ng là biến âm hiếm nhưng vẫn có những ví dụ không thể bác bỏ: Ngân/Căn 跟, Việt Đường âm Ngật 疙, nhưng hầu hết các ngữ chi TQ dùng phụ âm K như [kəʔ5] Thượng Hải, hoặc nữa là Nghiêu/Khiêu 跷, [kʰieu44] Phúc Châu.
Tại một thời điểm trong quá khứ Á Đông huy hoàng, 5 ngàn năm văn hiến, Càn và Thiên đồng âm, vẫn còn lưu dấu ở tiếng Nam Xương.
Trong 11 số tự nhiên Việt ngữ từ Không đến Mười, chúng ta có 3 số có từ nguyên chữ Hán mang bộ Thốn 寸 hoặc Thủ 手 là Hai (Đối 對), Bốn (Phù 扶) và Tám (Tầm 尋). Đây có lẽ là dấu vết cực kỳ cổ xưa của việc đếm ngón tay còn sót lại. Người lạc quan bảo đây là bộ số Dương Tử, nó ra đời khi chưa có Hán Đường. Người bi quan lại cho rằng người Việt cổ đã bị đồng hóa hoàn toàn.
Last update 1.12.2019
@T.T.Du
1.2019
Recent Comments