Văn hóa và ngôn ngữ Đại Việt là một thể thống nhất, không có kẽ hở và hết sức khó khăn để phân biệt. Người phương Tây thường nói “Ngôn ngữ là Văn hóa và Văn hóa là Ngôn ngữ – Language is culture and culture is language”. Rất nhiều người Việt luôn lải nhải tín điều hoang đường “Tiếng Việt gốc Mon Khmer hay Nam Á” nhưng hằng ngày, vẫn như cha ông họ bao đời nay, luôn bảo tồn văn hóa Hán – Đường đặc sắc, nhiều khi khá bảo thủ và cực đoan.

Bài viết này sẽ truy lục từ nguồn gốc đến tên gọi vài nét văn hóa Hán Đường dày đặc ở Việt Nam những tháng cuối năm. Đây là thời điểm rất đặc biệt và trái khoáy, khi bỗng nhiên gần 100 triệu người nhất tề quay lại dùng lịch Thái Sơ hơn 2100 tuổi của Hán vũ đế. Họ tạm thời không gọi chữ Nho là chữ Tàu và miệt thị nó, mà cung thỉnh nâng niu, trân trọng đặt lên bàn thờ gia tiên rồi xì xụp cúng bái…   

Tục dựng cây Nêu

Cây nêu tết nguyên đán dựng tại hoàng thành Thăng Long – Hà Nội tháng 1.2020

Khi chết đi hồn phách con người sẽ trở về rừng rú là quan niệm tối cổ ở Á Đông, hiện còn lưu tồn trong các nhóm dân tộc vẫn sinh hoạt giữa xã hội bộ lạc ở Tây Nguyên – Việt Nam. Vì thế sách Sơn Hải Kinh thời Chiến Quốc mới chép rằng đế Tuấn, vị thiên đế của Đạo giáo đã yên nghỉ giữa rừng tre trúc. Trong đám tang người Việt và Hán, thường xuất hiện cây gậy trúc và phướn chiêu hồn (theo lệ cũ phải màu trắng) móc vào một nhánh tre nhỏ còn để nguyên một ít lá trên ngọn. Hai thứ này biểu thị nghi lễ dẫn lối người quá cố về với trúc lâm 竹林 – thế giới của linh hồn (và ma quỷ).

Ngược lại, mỗi khi năm hết tết đến, cùng lúc với việc tiễn ông Táo – thần lửa cổ đại lên trời và đón hương hồn tổ tiên về chung vui xum họp tại dương thế – một cây tre to và cao, để nguyên lá trên ngọn, cũng được dựng lên trước cửa mọi nhà. Cây nêu có rất nhiều tên gọi và chữ Nho tương ứng như Cao Tiêu 高標, Cao can 高竿, Trúc Can 竹竿, Trúc Tung 竹嵩… Quý tộc Mãn Thanh rất hay treo đèn lên cây nêu ngày 23 tháng Chạp, nên gọi là Đăng Cao 燈篙 hay Cao đăng tung 高灯嵩.

Nêu là phương nam âm cổ xưa của chữ Tiêu 標, vì âm tối cổ của nó, theo nhà ngôn ngữ học Lý Phương Quế, bắt đầu bằng phụ âm kép [pjiäu]. [pjiäu] -> [jiäu] -> Nhêu -> Nêu. Dẫn chứng tương tự Nhăm -> Giằm hoặc Năm; Giễu (giễu cợt) -> Tiếu 笑; Giể (anh rể) -> Tế 婿/壻; Giâu (chị dâu)-> Tẩu 嫂… Sách Trang Tử có câu “Thượng Như Tiêu Chi, Dân Như Dã Lộc 上如標枝, 民如野鹿”, đến đây có thể hiểu rằng ở thời cổ đại vua chúa tựa cây nêu vô vi trên cao, thường dân tự do tự tại như hươu nai hoang dã dưới thấp. Bởi vì, chữ Chi 枝 mang nghĩa nhánh cây, cành cây, tiếng Đường còn có âm Ki, tiếng Việt-Mân-Quảng lưu giữ cổ âm Kây như [kei332] (Phúc An – Phúc Kiến) và [kei55] (Nhân Hóa – Quảng Đông).

Từ thời Hán, cây nêu cũng là thứ không thể thiếu ở Tiếu tràng 醮場 hoặc Đạo sĩ đàn 道士壇, tức đàn cầu cúng thiên thần, địa thần và thượng đế của đạo sĩ. Nó biểu hiện cho sự thông linh Thiên – Địa – Nhân.

Thụ đăng cao tại đạo tràng tế tự ngày 11 tháng 7 âm lịch năm Kỷ Hợi 2019 – Công viên Trung Chánh, TP Đài Trung, tỉnh Đài Loan.

Miếng trầu là đầu câu chuyện

Trong quyển sách Đông y – Kim Quỹ Yếu Lược từ thời Đông Hán, đã thấy ký âm Penang tức cây cau thành Tân Lang 檳榔, một loại dược liệu. Âm Tân là tiếng Đường. Tiếng Hán còn lưu tồn trong hầu hết ngữ chi Trung Quốc hiện nay đọc là Pin hoặc Ping, hoàn toàn khớp với âm gốc Penang hay Pinang, gốc rễ Austronesian cổ đại Á Đông.

Ở Tân Lang truyện trong Lĩnh Nam Chích Quái, thì Tân 檳 và Lang 榔 là hai anh em trong nhà họ Cao高. Người chị dâu khi chết bên cây cau (Tân biến thành) và hòn đá (Lang) thì hóa thân thành cây trầu, chữ Nho là Nhiễu Thụ 繞樹. Chữ Nhiễu 繞 này hiện tiếng Thái Nguyên, Tây An, Trường Sa, Khách Gia và Tương Đàm (Hồ Nam), nhiều nhánh Mân ngữ như Sán Đầu, Trừng Hải; hoặc tiếng Quảng Đông ở Giang Môn… tất cả đọc hoàn toàn giống hoặc gần giống Giầu trong tiếng Việt Nam. Như vậy Trầu có từ nguyên là chữ Nhiễu trong Nhiễu Thụ, và Cau có từ nguyên là Cao trong Cao Tân, Cao Lang. Tiếng Việt đã không dùng thổ âm Pinang, chứng tỏ tổ tiên chúng ta đã dung nạp phong tục bản địa nhưng từ chối ngôn ngữ.

Người Việt có thành ngữ “Miếng trầu là đầu câu chuyện” để nói về tục mời trầu đón khách. Ăn trầu (và nhuộm răng xăm trán – hắc xỉ điêu đề) là nét văn hóa trải dài từ bờ nam Dương Tử đến tận châu Úc. Cổ Hán ngữ gọi cây trầu là Củ 蒟, Củ Tương 蒟醬 hay Phù Lưu Đằng 扶留藤. Ngô Lục viết trong Địa Lý Chí thời Thanh: Ở Thủy Hưng (một huyện phía bắc Quảng Đông, gần Hồ Nam) có giống trầu này, vị cay, ăn cùng với cau. Sách Thục Ký (viết về nước Thục – Tứ Xuyên) thời Tấn ghi: lá trầu ăn với cau và một ít vôi thì tiêu trừ được ác khí trong người. Sách Dị Vật Chí thời Đông Hán cũng nói: lá trầu, cau và vôi kết hợp với nhau rất tốt. Sách xưa bảo ăn trầu cau giúp tiêu sầu.

Trong Tây Nam Di Liệt Truyện của Hán Thư, có nhắc đến việc Triệu Đà mời Đường Mông ăn món Củ Tương 枸醬 xuất phát từ nước Thục. Oái oăm thay hai chữ Củ Tương trong Hán Thư lại đồng âm với Củ Tương 蒟醬 chỉ cây trầu. Điều này dẫn đến khả năng rất lớn là Triệu Đà đã dung nạp tục ăn trầu phương nam và mời khách viễn phương.

Sách “Phúc Châu Đản dân điều tra” của Ngô Cao Tử – Đại học Yên Kinh xuất bản 1930, có bài thơ “風土詩 Phong thổ thi” nói về phong tục đất Mân của Trương Hanh Phủ, người Mân bắc – Phủ Thiệu Vũ – Phúc Kiến vào thời Đạo Quang (1820 – 1850). Bốn câu đầu như sau: 閩俗真殊異 Mân tục chân thù dị. 遺風自漢唐 Di phong tự Hán Đường. 手香籠苜莉 Thủ hương lung mục lị. 齒黑嗜檳榔 Xỉ hắc thị tân lang. Tạm hiểu: Tục lệ dân gian xứ Mân rất đặc thù, dù chứa đựng di sản phong hóa Hán Đường. Nó thơm tho và quyến rũ như những khoanh nhang vòng mang hương thơm của Bạch hoa xà (mục lị hoa) hoang dã bản địa nơi này. Dân chúng nhuộm răng đen, thích ăn trầu.

Múa rối và múa rối nước

Những người nông dân chơn chất trong đoạn phim trên chắc chắc không biết mình đang lưu giữ một di sản văn hóa phi vật thể rất lâu đời của tổ tiên. Nó bắt nguồn từ Trung Nguyên, muộn nhất là lúc Lão Tử và Khổng Tử còn sống, nam tiến dần xuống Dương Tử, Mân Việt, rồi trường tồn cả ngàn năm qua ở một rẻo đồng bằng tân lập bên dòng Hồng Hà.

Hình thức rối trong phim được sách chữ Nho gọi là Trượng đầu khôi lỗi 杖頭傀儡: Con rối chỉ có đầu cắm vào 1 cây gậy ngắn, nghệ nhân cầm vào đó mà diễn xướng trong các lễ hội hay các dịp hiếu hỉ của thôn làng hay gia tộc thượng lưu.

Theo sách Thái Bình Quảng Ký, thời Đường, múa rối nước gọi là Thủy Khôi Lỗi 水傀儡 hay Thủy Sức 水飾. Thủy sức nghĩa là dùng nước che đậy, giấu các cơ cấu truyền động phía dưới các con rối. Bạch thoại Việt ngữ đã gọi tắt Khôi Lỗi – tức con Giối – thành Giối. Quan hệ ngữ âm giữa Giối và Lỗi có thể tham khảo Lăm <-> Giằm (mười lăm = mười giằm). Xác suất rất cao Giối là cổ âm thời Hán của Lỗi.

Sân khấu múa rối nước ở thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam – Trung Quốc, trong công viên Thanh Minh Thượng Hà, theo chủ đề văn hóa thời Tống.

Trong múa rối nước Việt Nam, có một nhân vật rất đặc biệt tên là Chú Tễu. Ta thấy chữ Tiếu 笑, nghĩa là cười, hiện có 3 phương ngữ ở Quảng Đông đọc rất giống Tễu [ʃeu23/33/44]. Người ta thường dùng âm Tếu hoặc đẳng lập Tếu Táo (giống mếu máo, lếu láo…), nếu thấy cái gì đó gây cười vui, hài hước. Ngoài ra âm Tiếu/Tếu cũng rất gần âm Tiểu 小, tức là nhỏ. Chú Tễu cũng có thể là chú nhỏ vì một số tượng Tễu được gắn hai chỏm tóc tựa như biến thể trái đào ở trẻ em của giống Hán Đường.

Nhu liệu đã dẫn thật ra chưa thể kết luận, nếu không đi sâu vào chi tiết Hí Khôi Lỗi (rối hài) ở Hoa Nam. Bên ấy họ dùng thuật ngữ Sửu/Xú 丑 chỉ vai hề (hí ngẫu 戲偶) trong các vở kịch. Chữ Sửu/Xú này chính là từ nguyên của Xấu (ugly) và cả (làm) Xấu (tức làm mặt hề). Các phương âm Hoa Nam hiện nay của chữ Sửu cũng rất gần với Tễu, chẳng hạn [tsʰeu45] Giang Môn – Quảng Đông, [tʰieu32] Phúc Châu – Phúc Kiến. Cũng nên lưu ý ở tiếng Trung hiện đại, chú hề được viết là Tiểu Sửu 小丑. Đến đây thì chúng ta đã thấy 3 Đường âm gốc Tiếu/Tiểu/Sửu đã đan xen và chồng phủ tự nghĩa lên nhau. Do đó kết luận Tễu có tự nguyên từ bất cứ chữ nào cũng chưa thật đầy đủ và thuyết phục tuyệt đối.

Tháng Hợi mổ heo, ra Giêng anh cưới em

Văn hóa Trung Nguyên thời Chu gọi tháng đầu năm là tháng Một, chi Tí, lấy con Chuột làm biểu tượng. Đây là mùa cưới xin với mong ước con đàn cháu đống như loài chuột (một năm có thể cho ra đời 5 đến 10 thế hệ).

Bản chất của ngũ hành là bộ số ngũ phân. Hành Mộc 木 là số Một ngũ phân, cũng là từ nguyên của âm Một trong tiếng Việt. Thời Hạ dùng lịch ngũ phân (ngũ quý) có 5 mùa, có lẽ cũng chính là tháng. Tháng thứ nhất gọi là tháng Một. Sách Khổng Tử Gia Ngữ (206 BC – 220 AD) chép: Tích Khâu dã văn chư Lão Đam viết: Thiên hữu ngũ hành, mộc, hỏa, kim, thủy, thổ, phân thì hóa dục, dĩ thành vạn vật… Sách Xuân Thu Phồn Lộ thời Tây Hán của Đổng Trọng Thư lại viết: Nhất viết Mộc, Nhị viết Hỏa, Tam viết Thổ, Tứ viết Kim, Ngũ viết Thủy.

Cũng thời Chu, tháng cuối cùng của năm là tháng Chạp, chi Hợi, lấy con Heo làm biểu tượng. Chạp vốn là cổ âm của chữ Chá 䄍/蜡, sau bị Tần Thủy Hoàng đổi qua chữ Lạp 臘. Tháng Chạp xưa ở Á Đông là mùa cúng tế của cả vua quan và thứ dân, nên mới có thuật ngữ Giỗ Chạp. Âm Giỗ chính là cổ âm của chữ Kỵ 忌, biến âm G/K (như trường hợp Cây/Gỗ, Kêu/Gọi, Kẻ/Gã).

Tranh Đám cưới Chuột, mộc bản Chương Châu – Phúc Kiến, là mẹo dân gian để tiếp tục thờ Chuột với mong ước con đàn cháu đống, lách qua khe hẹp các quy định lễ nghi cứng nhắc của Nho giáo và Đạo giáo.

Lạp tràng 臘腸 là món xúc xích Á Đông, chắc chắn có rất lâu trước khi sách Tề Dân Yếu Thuật thời Bắc Ngụy (386 – 534) mô tả “Quán tràng pháp” tức là cách nhồi lạp tràng. Xa hơn là sách Nghi Lễ thời Chiến Quốc đã ghi ba chữ Lạp tràng vị 臘腸胃 liền nhau, trong đó Vị mang nghĩa dạ dày, chỉ các thứ thờ cúng hay dùng cho tiệc tùng.

Hiện nay người Thổ gia bản địa ở Hồ Nam vẫn lưu giữ tập tục làm xúc xích, có lẽ là xa xưa nhất. Mỗi năm đến dịp Đông Chí, nhà nhà đều giết lợn rồi làm món thịt sấy khô và xúc xích để dành mở tiệc đêm trừ tịch. Xúc xích có 2 loại là Lạp tràng và Huyết tràng. Huyết tràng chính là món Dồi tức Nhồi ở tiếng Việt. Màu đỏ của Huyết tràng cũng giống như sắc hoa đào, được cho có tác dụng xua đuổi ma quỉ và đem đến may mắn lúc giao niên.

Nhiều người Việt cho rằng âm Giêng trong tiếng Việt là cổ Hán âm của chữ Chính 正. Biến âm Gi/Ch là có, giời/chời, giai/chai… chẳng hạn. Tuy nhiên bạch thoại sông Hồng của chữ Chính 正 chỉ thấy tồn tại ở thế Chiếng, trong Tứ Chiếng tức Tứ Chính 四正 mà thôi. “Trai tứ chiếng, gái giang hồ” ý nói trai bạt mạng đông tây nam bắc, gái là “người yêu” cả thiên hạ hay “người tình quốc dân”. Giang hồ, ở góc độ nào đó là phản nghĩa của “chính chuyên – 正專 ”. Lúc này Chính 正  lại hàm ý Tứ Chính của Khổng Tử trong Lễ Ký: “天无二日, 土/士无二王, 家无二主, 尊无二上 – thiên vô nhị nhật, thổ/sĩ vô nhị vương, gia vô nhị chủ, tôn vô nhị thượng ”.  

Chữ Giần 寅 chỉ tháng thứ nhất lịch Kiến Dần, âm Thái Nguyên – Thiểm Tây hiện nay vẫn đọc là [iəŋ11] như tiếng Việt. Các ví dụ khác: Láng Giềng là âm bạch thoại sông Hồng của Lân Cận 鄰近, tương đồng với tiếng Thái Nguyên Trung Quốc [liəŋ11] [ʨiəŋ45]. Giềng trong giềng mối, giềng/giằng/căng có từ nguyên là Cương 綱. Giềng là cổ âm của Gừng, chữ Khương 薑, nói tắt ba chữ Cao Lang Khương 高良薑. Giếng là cổ âm của Tỉnh 井…

Chính nguyệt thật ra không cố định, sách Tiền Hán Kỷ đã ghi rõ: thời Hạ lấy tháng Dần, Chu lấy tháng Tí, Thương dùng tháng Sửu. Đến năm 104 BC, Hán Vũ đế đổi qua lịch Thái Sơ – Kiến Dần như nhà Hạ. Như vậy kết luận Giêng là cổ âm của Dần mới giữ được tính liên tục của ngôn ngữ vì như đã nói, âm chỉ số 1 của tiếng Việt có từ nguyên là Mộc, ngũ phân thời Hạ.

Thỏ hay mèo?

Tháng Sửu: Dẫn trâu ra đồng, bắt đầu mùa mới.

Tháng Thìn: Rồng phun nước. Mùa mưa đến.

Tháng Tuất: Tuất nguyệt 戌月, tháng 11 thời Chu, tháng 9 thời Hán. Đây là thời điểm cuối mùa thu, thời tiết đẹp, nông vụ đã gặt hái, muông thú đã qua kì thay lông và sinh sản, béo tốt, cây cỏ rụng lá không chắn tầm nhìn. Thế là cổ nhân xua chó đi săn. Chính vì vậy săn thú (vào mùa thu) được viết bằng chữ Lạp 獵 hoặc chữ Tiển 獮, đều bộ Khuyển 犬. Săn chính là tiếng Mân khi đọc chữ Tiển và tháng Tuất được áp cho con chó. Chó lại là tiếng Ngô Việt khi đọc chữ Khuyển.

Người Việt Nam và Trung Quốc đều không hiểu tại sao chi Mão/Mẹo 卯 được áp cho Mèo và Thỏ, là hai con hoàn toàn khác nhau, ở hai nước. Sách Luận Hành của Vương Sung năm 80 thời Đông Hán đã ghi chú rõ ràng trong phần Vật Thế, chi Mão gắn với con Thỏ. Đến thế kỷ 18, sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn vẫn còn chép chi Mão là con Thỏ. Tuy nhiên trước đó, ở thế kỷ 17, tự điển Việt – Bồ – La (1651) của Alexandre de Rhodes, lại chép Mão là Mẹo và giờ Mẹo ứng với con mèo.

Trước tiên chúng tôi xin nhắc lại, về mặt từ nguyên, người Việt đang gọi con Gấu là con Chó vì từ nguyên của Gấu là Cẩu. Thư tịch chữ Nho viết đầy đủ danh từ chỉ con Gấu là Cẩu Hùng 狗熊, là giống gấu lông đen (hắc hùng 黑熊) bản địa từ sông Dương Tử đến sông Cửu Long. Cũng lưu ý, loài Panda chữ Nho là Miêu Hùng 貓熊 hoặc Hùng Miêu 熊貓, tức Gấu Mèo trong tiếng Việt. Dùng chữ chỉ con thú này để mô tả giống loài khác rất phổ biến trong thư tịch Nho học. Chẳng hạn sách Sơn Hải Kinh chép Hổ Giao 虎蛟 thân cá, đuôi rắn. Chữ Li 狸 chỉ con cáo nhưng Li Miêu 狸貓 lại là mèo rừng. Dân gian Việt gọi mèo là Tiểu Hổ 小虎 nằm trong mạch nguồn ấy.

Miêu Thố 貓兔: The Sino-Tibetan Etymological Dictionary and Thesaurus

Tiếng Thổ Gia của người dân tộc bản địa ở Hồ Nam – Trung Quốc, con thỏ được gọi bằng âm tương đồng với Miêu Thố 貓兔. Từ đây có thể dễ dàng đi đến kết luận rằng Mẹo ứng với con thỏ là ở trong văn ngôn. Bạch thoại dân dã giản dị hơn, áp thẳng vào con mèo.

Bếp

Bếp, có chữ Nho rất cổ và ít được sử dụng phổ thông là Phạp 𤇮. Khang Hy từ điển ghi nhận phương ngôn Huy ngữ vùng Giang Đông vẫn dùng chữ Phạp chỉ chiên hoặc rán thực phẩm bằng dầu ăn. Xưa, ở Hoa Nam cũng dùng chữ Phạp chỉ cái bếp tức Trù Phòng 廚房.

Phạp/Bếp 𤇮 lấy thanh của chữ Phạp 乏, tiếng Triều Tiên đọc là [phip], được Hán Điển tái tạo cổ âm bạch thoại thời Đường là [bhiæp]. Như vậy Bếp thiên về nấu nướng hơn là chỉ cái hỏa lò tức Hỏa Lô 火爐. Núc trong bếp núc có lẽ là biến âm của lúc/lát, bếp núc hẳn chỉ quãng thời gian nấu ăn.

Ông táo, ông đầu giau, bù giau

Lưu An thời Tây Hán và Vương Xung kỷ Đông Hán đều trích dẫn sách cổ, viết: Viêm đế tác hỏa tử nhi vi Táo 炎帝作火死而爲竈 – Nghĩa là đế Viêm đã tạo ra lửa, khi mất đi biến thành cái bếp. Viêm đế còn gọi là Bào Hy 庖羲, đây chính là lý do chữ Nho – Bào 庖 cũng chỉ cái bếp. Bất chấp mọi biến thể, dị thể khắp lục địa Á Đông về sự tích ông táo, chúng ta thấy rằng gốc rễ của táo quân rõ ràng xuất phát từ tục thờ lửa tối cổ của loài người nói chung.

Người Mân Nam dùng hai chữ Táo Giao 灶跤 (hoặc Táo Giao 灶骹, Táo Cước 灶腳) mà bạch thoại Việt ngữ ký âm sai thành Đầu Rau rồi đưa vào tự điển. Cho đến lúc này các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc và Đài Loan vẫn chưa hiểu tại sao Táo lại kèm theo chữ Giao chả mang nghĩa gì cả. Một số gắng gượng dựa vào hình ảnh các thanh củi giao nhau, chồng lên nhau trong bếp lò rồi suy diễn. Nếu vậy phải dùng Giao 交, chứ sao lại thêm bộ Túc hay bộ Cốt?

Ở đây chúng tôi thấy hai dòng biến âm trên cùng một chữ/âm. Cổ âm của Táo 竈/灶 chắc chắn là Đầu (như đồi/tồi, đức/tốt). Song song đó là Đầu -> Giàu -> Giao, tương tự như Đao 刀 -> Dao, Đạo 稻 -> Giạo -> Gạo. Vì vậy có thể kết luận Đầu Giau là đẳng lập cùng gốc, cực kỳ phổ biến trong tiếng Việt: Ướt Át (Ác 渥), Gà Qué (Kê 雞), Mộc Mạc (Mộc 木), Mồ Mả (Mộ 墓)…

Hơn nữa hiện nay có 5 địa phương Trung Quốc, những trung tâm văn hóa Hán Đường, chắc chắn còn lưu tồn rất nhiều âm Hán cổ, gọi gian bếp có âm Đầu. Vạn Ninh – Sơn Tây: Oa đầu 鍋頭, trong đó Oa mang nghĩa cái nồi. Hàng Châu và Ninh Ba – Chiết Giang: Táo đầu gian 灶頭間. Kim Hoa – Chiết Giang: Hoạch đầu gian 鑊頭間 hoặc Hoạch đầu 鑊頭, trong đó Hoạch là cái vạc, cái chảo để nấu.

Một số làng cổ ở Thái Bình không dùng Đầu, mà chỉ gọi ông Táo là Bù Giau, càng khẳng định hướng nhìn này có lý. Bù Giau nhiều khả năng là Mân âm của Bào Giao 庖跤 vì chữ Bào hiện tiếng Mân ở Tiên Du – Phủ Điền – Phúc Kiến đọc là Pù [pu24].  

Ngày nay ở Phúc Châu – Phúc Kiến, đồ cúng táo quân cuối năm không thể thiếu hai cây mía, tương truyền bắt đầu từ thời Tống. Dân gian kể rằng khi ấy có một Nho sinh rất nghèo, chỉ có thể nhặt mấy gốc mía bị người ta bỏ đi rồi tém gọt sạch sẽ đặt lên bàn thờ, nhờ táo trình bày với ngọc hoàng thượng đế rằng chữ nghĩa hiện tại quá rẻ rúng nên không có tiền làm tiệc thịnh soạn. Ngọc đế đồng cảm, năm ấy bèn độ cho kẻ thư sinh ấy đậu trạng nguyên. Thế là “Khổ tận cam lai – 苦盡甘來”. Cam Giá 甘蔗 chính là cây mía vậy. Thật ra câu chuyện ấy cũng chỉ là vẽ rắn thêm chân vì ngoài mía, tế táo còn phải có các món ngọt như bánh, xôi, chè. Thậm chí nhiều nhà còn bôi cả mật lên miệng tượng táo với hy vọng lên thiên đình, táo chỉ tâu bẩm những lời ngọt ngào mà thôi.

Táo quân là tối giản của danh hiệu “Cửu thiên tư mệnh định phúc đông trù yên chủ bảo táo hộ trạch chân quân” trong Đạo giáo. Xưa nhất, có sách Phong Thổ Ký thời Tấn (265 – 316) chép: “Tối 24 tháng Chạp thì tế táo”. Mốc thời gian này kéo dài đến tận giữa triều Thanh, có ghi chú rõ ràng trong sách Thanh Cung Di Văn các năm Càn Long. Sau đó, lấy cớ phân biệt tôn ti, hoàng gia, vương công và quan lại đồng loạt đổi tế táo qua ngày 23 tháng Chạp, dân chúng vẫn giữ như cũ. Ở Phúc Châu – Phúc Kiến ngày nay vẫn còn lưu truyền thành ngữ “Quan tam, dân tứ, khúc đề ngũ 官三民四曲蹄五”, nghĩa là nhà quan cúng táo ngày 23, dân 24 và người Khúc Đề cúng vào ngày 25. Khúc Đề là từ miệt thị, ý tương đồng với “chân đất mắt toét” để chỉ tộc Đản, chính là một nhánh người Lê 黎 bản địa ở Hoa Nam. 

Chữ Viêm 炎 trong Viêm đế tượng hình hai ngọn lửa màu đỏ chồng lên nhau, do đó từ thời Đường, kết hợp với việc triều đình cấm ăn cá chép, có lẽ tục thả cá chép ĐỎ vào ngày đưa táo quân lên trời bắt đầu thịnh hành. Đây là sự kết hợp hài hòa giữa đời sống thực tế và thần thoại cá Chép hóa rồng bay lên trời (Lý ngư dược long môn biến thành long 鯉魚躍 龍門變成龍) có căn cứ thư tịch chắc chắn từ Trúc Thư Kỉ Niên thời Chiến Quốc. Ở đây Dược 躍 là nhảy lên, chứ không phải Việt/Vượt 越.

Cá chép và cá giếc

Cá chép là món ăn cực phẩm của người Trung Nguyên, được ca tụng từ Kinh Thi trở đi, chữ Nho là Lí 鯉, còn gọi là Xích Lí Ngư 赤鯉魚 (cá Lí đỏ). Vì đồng âm với họ Lý李của Đường cao tổ nên bị đổi thành Xích Tiên Công 赤鮮公. Tục phóng sinh cá chép có thể bắt nguồn từ việc nghiêm cấm ăn cá chép ở thời này. Theo sách Dậu Dương Tạp Trở hồi thế kỷ thứ 9, Đường pháp qui định lỡ bắt được Lí ngư thì phải thả đi, mua bán cá chép bị phạt 60 roi. Từ nguyên Chép nhiều khả năng hình thanh tiếng cá đớp Chép Chép, Chẹp Chẹp, tiếng Việt Nam và tiếng Mân phát âm như nhau, chữ Nho là Thiệp 捷.

Cá chép

Nếu cá chép mang màu đỏ may mắn thì cá Giếc màu vàng thể hiện sự quý phái. Giống cá vàng (goldfish) hiện được nuôi làm cảnh khắp thế giới chính là một dòng đột biến của chủng Giếc.

Cá Giếc, chữ Nho là Phụ 鮒 hay Tức 鯽. Chữ Tức 鯽, Mân âm Triều Châu tại huyện Nhiêu Bình 饒平 tương đồng hoàn toàn với tiếng Việt [ziêg4]. Thật ra nếu không có âm Nhiêu Bình, chúng tôi vẫn có thể tái lập và chứng minh Giếc là cổ âm của cách đọc chữ Tức ở hầu hết các ngữ chi Trung Quốc hiện nay: Quảng Đông [ʦɐk55],  Nam Kinh [ʦiʔ5], Hạ Môn [ʦik32]… Đây là biến âm Gi/Ch như đã nhiều lần được lấy làm ví dụ: Giời/Trời, Giăng/Trăng, Giỗng/Trống, Giun/Trùn…

Vĩ Thanh

Phim tài liệu: Tôi là ai?

Văn hóa và ngôn ngữ Hán Đường tầng tầng lớp lớp hòa quyện với nhau ở xứ Việt với nền tảng tâm linh Đạo giáo. Đến nỗi danh từ riêng Đạo đã trở thành danh từ chung chỉ tôn giáo như Đạo Phật, Đạo Chúa… Những thứ phi Hán Đường ở nước ta hầu hết lại chia sẻ nguồn gốc với đất Mân.

Một thế kỷ qua học thuật thực dân và hậu thực dân đã thực thi âm mưu thâm độc rất hệ thống, nhằm tẩy não người Việt Nam, bắt đầu từ việc loại bỏ chữ Nho khỏi đời sống xã hội vào đầu thế kỷ 20. Mất chữ Nho, người Việt không những không hiểu cha ông mình từng viết gì, mà còn không rõ bản nghĩa của Việt âm thông dụng hằng ngày cũng như gốc rễ văn hóa.

Sài Gòn – Tây Giang. Tiết Lập Xuân 3.2.2021

@T.T.Du