Gạo, cơm và các “học giả” như Laurent Sagart…

Leave a comment

Trí thức tiến bộ và khách quan ở Mỹ hay dẫn câu “Washington is Hollywood for ugly people” để ngầm nói về khía cạnh xấu xa của chính trị Hoa Kỳ, ngọn cờ đầu “dân chủ – tự do” phương tây. Tuy nhiên đại chúng ít khi được biết đến mặt trái ở các lĩnh vực khác, đặc biệt là với khoa học xã hội và nhân văn.

Suốt gần một thế kỷ rưỡi nay, học thuật phương tây đã lũng đoạn một cách có bài bản và hệ thống, đối với Việt ngữ nói riêng và Á Đông ngữ nói chung. Ẩn dưới các mỹ từ mô phạm và kinh viện, các “học giả” đã bóp méo tất cả, từ nguồn gốc cho đến lịch sử diễn tiến ngôn ngữ của chúng ta. Họ in sách, truyền bá những điều nhảm nhí khắp nơi, đã đầu độc biết bao thế hệ người Việt.

GẠO – tây phịa đằng tây.

Chúng tôi thấy rằng âm [gạo] được wiktionary truy xuất rất nực cười như trong hình dưới đây.

Thật ra Giạo/Giảo mà biến âm cận đại của nó là Gạo mới là âm mẹ của tất cả ngôn ngữ Á Đông. Do vậy, chúng tôi đã tìm và email trực tiếp đến Laurent Sagart, tác giả được wiktionary trích dẫn. Mục đích đầu tiên ở đây là để kiểm nghiệm liêm sỉ và liêm chính của một trong các tên tuổi đầu ngành, có nghiên cứu tiếng Việt và còn sống. Với sự giúp đỡ rất tiện lợi và hoàn toàn miễn phí của google translate, chúng tôi đã soạn ra một lá thư nhỏ, chuyển tải nghiên cứu của mình về nguyên gốc của âm [gạo].

Email 1: Chúng tôi khẳng định sự sai lầm của Laurent Sagart và những đồng môn phương tây của ông ta, khi phịa ra nội dung mà wiktionary trích dẫn.
Email 2: Ngay lập tức Laurent Sagart trả lời đầy nhiệt huyết và tự tin. Chắc chắn lúc này ông ta nghĩ chân lý đứng về phía mình cho nên hào hứng như một hiệp sĩ trung cổ tài hoa sắp lâm trận.

Xin bạn đọc cũng lưu ý, phần giải thích bằng tiếng Việt vốn đầy đủ và phức tạp hơn bản tiếng Anh rất nhiều. Chúng tôi đã cố gắng giản lược, chỉ nêu chủ điểm, để phù hợp với trình độ Việt ngữ chắc chắn là cực kì hạn chế của các “học giả” tây nói chung. Tất nhiên, từ lâu chúng tôi đã loại trừ việc gửi kết quả nghiên cứu của mình cho bất cứ người bản xứ nào trong ngành. Căn tính nô lệ và niềm tin vào tây không cần kiểm chứng của họ thật sự là không có thuốc chữa.

Email 3: Khai mở từ nguyên Gạo của chúng tôi.  

Nội dung gốc – tra xét từ nguyên của GẠO

“Đầu tiên chúng tôi xin dẫn một ví dụ mà mọi người đều công nhận. Âm Dao trong tiếng Việt có gốc từ chữ Đao 刀 (thật ra Dao là cổ âm của Đao). Tôi coi ngôn ngữ cũng là toán học, do đó ở một số trường hợp nhất định D = Đ (tôi có thể liệt kê rất nhiều ví dụ, nhưng xin để sau). Như vậy ở một thời điểm nào đó trong lịch sử người Việt đã đọc chữ Đạo 稻 là Dạo.

Thứ nhì là chữ Yểu 舀, tiếng Bắc Kinh hiện nay đọc là [yǎo]. Đây chính là cái gáo múc nước trong tiếng Việt.

Từ đây tôi quay ngược đến chữ Đạo 稻 mà rõ ràng tự hình khẳng định bộ Hòa 禾 chỉ nghĩa, chữ Yểu 舀 chỉ âm. Nếu Yểu 舀 đã thành [gáo] thì rõ ràng [gạo] cùng gốc rễ với Đạo 稻.

Chưa hết, cùng đọc bằng âm yểu còn có chữ Đạo 蹈 là gốc của âm Dạo (đi dạo) và Dảo (ký âm sai thành rảo trong rảo bước). Bộ Túc 足 ở đây chỉ cái chân. Người Việt viết “rảo bước” nhưng miền bắc đọc là “giảo bước” còn miền nam lại thành “gảo bước”. Các trường hợp tương tự như (cá) rô -> giô/gô, cái rổ -> giổ/gổ, Để/Đế 柢 (rễ) -> giễ/gễ, … Vẫn có những từ hai miền đọc như nhau: Giá 嫁 -> gả/gá, Đại 汏 -> dáy (trong rửa ráy).

Nói cách khác [gạo] trong tiếng Việt là biến thể của âm trung đại [yǎo] và nhiều khả năng [yǎo] là Hán âm vì Đạo là Đường âm”.

Cuối cùng thì ngài tiến sĩ Laurent Sagart, nhà nghiên cứu Á Đông ngữ cấp cao ở phương tây đã vội vàng chạy trốn. Trước khi chui đầu xuống cát, ngài thẽ thọt: “Forgive me if I cannot continue this conversation further, due to lack of time, for which I apologize”.

Email 4: Đến google cũng biết Giểu Tử 舀子 là cái gáo, mà tiến sĩ ngôn ngữ học Phú Lang Sa thì lại không.

Nỗ lực chống đỡ với sự thật của ngài lại càng làm lộ rõ ngài cực dốt tiếng/chữ Hoa, chứ không riêng tiếng Việt: “I think the weak point in your idea is that 舀 has become [gáo] in Vietnamese. 舀 is a verb, it means ‘to scoop’, not ‘a ladle’, and it applies specifically to scooping grain from a mortar (not liquids). The Old Chinese initial of both 舀 and 稻 is considered by many scholars today to have been *l-; and I am not aware of examples where OC *l- is treated as g- in Vietnamese”.

Tất nhiên là tôi dừng lại, chả cần dây dưa thêm với ngài một phút giây nào nữa. Dạy ngài thêm bất cứ thứ gì đều thừa thãi và vô ích. Chữ Yểu 舀 thật ra kí âm đúng phải là Giểu, tìm hình ảnh Giểu Tử 舀子 bằng google image sẽ thấy đây chính là cái gáo. Động từ Giểu 舀, chỉ cần thêm chữ Tử 子 là thành danh từ mà “học giả” không biết thì rất lạ!  

CƠM – ta bịa đằng ta.

Cám là phần vỏ mềm của hạt gạo rơi ra khi xay hoặc giã. Chữ là Hàm 函 , phương ngữ Hán Mân trung đại thường thêm [k] vào như [xam22] (đọc gần như Kham – Ninh Đức, Phúc Kiến). Hậu âm của nó sẽ mất [h] để trở thành Cám (Việt Nam ngữ) hay [kam12] (Mân ngữ ở Bình Nam, Quảng Tây).

Cốm tiếng Thái là Khao Mao [ข้าวเม่า] mang nghĩa lúa non. Người Lào Thái Tày Nùng và cả Khmer đều có cốm. Người Trung Quốc dịch ra thành Lục mễ 綠米. Tìm từ cổ tương đương với Lục 綠 chúng tôi thấy chữ Cám 紺. Nếu tra tự điển sẽ ra rất nhiều nghĩa liên quan đến màu sắc. Sách Quảng Nhã thời Ngụy (tức Bác Nhã thời Tùy, đổi tên do kị húy Dạng Đế Dương Quảng) ghi chú Cám là màu Thương Thanh 蒼青 tức xanh lục. Thuyết Văn lại ghi chú đây là màu trắng chuyển xanh đậm có ánh sắc đỏ. Tiếng Việt đã dùng cả hai nội hàm này, có thay đổi âm và thanh một chút: Xanh lục cho Cốm, tức là nói tắt của Cám Mễ 紺米 chỉ lúa non vỏ còn xanh. Ánh đỏ cho nếp, tức là Nếp Cẩm.

Hình chụp từ điển trực tuyến của một tiến sĩ – nhà giáo Hán Nôm ở trên có 3 cái sai. Một là hai chữ Cam/Cơm 粓/𩚵 này có ghi rõ ràng trong Khang Hi Tự Điển và trước đó là sách Tập Vận 集韻 xuất bản vào thời Tống năm 1037. Các sách ấy đều chú rằng hai chữ này tương đồng, nghĩa chính chỉ thức ăn, tức Nhĩ 餌. Dùng thức ăn mà dụ, tiếng Việt gọi là Nhử/Giử cũng từ Nhĩ 餌 mà ra, tiếng Mân Triều Châu hiện đọc là Giừ, tiếng Ngô ở Ôn Châu đọc y như một số phương ngữ Việt là Giử [zɿ35].

Hai là so sánh đối ứng 6 thổ ngữ của tác giả “NV Tài 2005: 202” nào đó đến đây vô nghĩa.

Ba là việc các tự điển cổ Trung Quốc xác định hai chữ này chỉ thức ăn nói chung, đã chứng tỏ tiến sĩ kia hiểu sai hoàn toàn nghĩa gốc của cơm khi chú “thức ăn do gạo nấu chín”. Các phần cùi hay thịt của trái cây ăn được, đều được gọi là cơm như cơm dừa (cùi dừa), quả vải dày cơm mỏng vỏ nhỏ hạt… Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội – 1992, trang 226 – may mắn còn ghi rõ một trong những nghĩa của cơm là “Những thức làm thành một bữa ăn (nói tổng quát)”.

Tiến sĩ nhốt mình trong phòng quạt máy, thiếu trải nghiệm ngôn ngữ đại chúng, lười tra tự điển nên không biết rằng thành phần chủ yếu trong bữa ăn người Việt là cơm gạo, lâu dần giản xưng thành cơm khiến nhiều người từng nhầm tưởng.

Từ đây chúng ta lại thấy rằng quan niệm xưa nay về chữ Nôm trong học giới Việt Nam đã xuất hiện vấn đề cốt tử. Rất nhiều chữ được cho là chữ Nôm, mang âm Nôm lại là các chữ Hán cổ với các nghĩa hiếm mang tính địa phương, vùng miền, mà chủ yếu là ở Hoa Nam. Trước mắt, tôi chân thành khuyên những người liên quan sử dụng Hán Điển online mỗi khi tra cứu bất cứ chữ Nôm nào. Rất dễ dàng xác định nơi con chữ được sáng tạo ra chỉ sau 30 giây.  

Kết luận

Chúng tôi đã phơi bày cùng quí vị hiện trạng đáng buồn trong học giới hàn lâm. Tiến sĩ tây thì bịa đặt, khi được gửi nhu liệu phản biện mang tính xây dựng thì trốn chui trốn nhủi, tránh né rất hèn nhát. Tiến sĩ ta lại chả thông tiếng Việt, nghiên cứu nửa vời xuê xoa, làm cho có. Thứ ngôn ngữ đáng quí mà cha ông truyền lại cho chúng ta đang đứng trước một vấn nạn cần báo động: vừa mai một từng giây từng phút dưới hệ thống kí âm chưa chuẩn, vừa bị hiểu sai gốc rễ bởi sự xuyên tạc của thứ “giả học thuật” ngoại lai hàng thế kỷ nay. 

Tây dốt và yếu tiếng ta là chuyện rõ như ban ngày, nhưng chúng tôi không hiểu nổi tại sao nhiều đồng bào mình vẫn thờ tây và có khi còn yêu cầu chúng tôi “trình” những khám phá độc quyền của mình cho tây duyệt! Bài viết này là sự trả lời dứt khoát nhưng không hề khép lại mọi cánh cửa. Chúng tôi sẵn sàng hợp tác hoặc đối chất với bất cứ ai có tinh thần cầu thị, trên bất cứ từ nguyên nào xưa nay vẫn ngộ nhận là gốc Mon Khmer hay Austroasiatic. Trong tổng số khoảng 6000 độc âm trơn, chưa kể thanh của Việt ngữ, chúng tôi đã khai mở xuất xứ được 1500 âm với khả năng chính xác trên 80%. Tổ tiên chúng ta rõ ràng đã dùng bạch thoại Hán Đường Mân nhưng phần lõi của nó lại liên quan mật thiết với tiếng Austronesian cổ đại miền duyên hải phía nam hạ lưu sông Dương Tử.

Từ chối trách nhiệm – Disclaimer: Chúng tôi tuyến bố từ chối mọi trách nhiệm đạo đức và liêm chính khi công bố những email của ông Laurent Sagart mà không hỏi trước, bởi vấn đề chúng đề cặp liên quan đến sai lầm của ông và các học giả phương tây nói chung, khi mạo phạm Việt ngữ bằng sự hiểu biết cực kỳ nghèo nàn về nó – cộng với tư duy áp đặt thực dân rất đáng xấu hổ.

Thạch Viên – Nhơn Trạch

28.5.2021 @Trương Thái Du

Tại sao người Việt chửi tục bằng tiếng Tào?

Leave a comment

Khi mới bắt đầu mày mò tra cứu từ nguyên Việt ngữ, có bạn nói với chúng tôi rằng: Phải tìm cho bằng được nguồn gốc các từ về mặt xã hội là tục tỉu và bậy bạ nhất. Đó sẽ là một căn cứ mà không một tên học phiệt thực dân ngu dốt hoặc một kẻ dân tộc chủ nghĩa mù quáng nào có thể bác bỏ được, nếu nó chỉ rõ gốc Hán Đường như hàng ngàn từ “thuần Việt” chúng tôi đã khai mở. 

Chửi Thề

Chửi là Hán âm và là động từ của chữ Sỉ 恥 (tính từ mang nghĩa nhục nhã, hổ thẹn). Phát âm tương đồng với người Việt chỉ còn phương ngữ Quảng Tây ở Phố Bắc và Linh Sơn – Khâm Châu [tʃʰui33] và [tʃʰui55], trong khi hầu hết phương âm Trung Quốc ở thể [ci2] (chỉ – Quảng Đông) hoặc [ʦʰɿ35] (chử – Ôn Châu). Điều này chứng tỏ Chửi là âm rất xưa của Sỉ 恥. Sỉ Mạ 恥駡 có nghĩa chửi mắng, làm nhục.

Thề là Mân âm của chữ Để 詆 cũng mang nghĩa văng tục (swear), mắng nhiếc. Hiện tiếng Hạ Môn đọc là [te53]. Như vậy Chửi Thề là từ ghép đồng đẳng Hán – Mân.

Để chỉ dương vật, chữ Nho dùng hai thể đồng âm và đồng dụng (cùng chỉ sinh thực khí) trong nhiều ngữ chi Trung Quốc, đặc biệt là Hoa Nam: Điểu 鳥 và Điếu/Điểu 屌. Nếu Tiểu 小 đã biến âm ra hàng loạt từ trong tiếng Việt: Tí, Tèo, Tẹo, Teo, Téo, Xíu… thì Điểu 鳥 cùng với Điếu/Điểu 屌 đã cho ra ít nhất bốn từ Đéo, Tỉu (trong tục tỉu) và Lẹo/Nẹo chỉ hành vi tính giao của động vật. Cả ba âm này đều có sự tương đồng hầu như tuyệt đối với tiếng Mân Nam, Quảng Đông và Khách Gia. Chẳng hạn Điểu 鳥 tiếng Mân Nam ở Hạ Môn đọc bằng 3 âm [niãu53] [liau53] và [tiau53].

Điểu 鳥 cũng chỉ con chim nên tiếng Việt còn gọi bộ phận sinh dục cả nam và nữ là Chim. Từ nguyên của âm Chim nhiều khả năng xuất phát từ chữ Cầm 禽. Tiếng Mân Hạ Môn hiện đọc chữ Cầm 禽 là [kʰim35] nếu nuốt phụ âm đầu [k] như Khan/Hãn thì sẽ ra Hĩm. Ngoài Chim, lại còn từ Bướm chỉ để chỉ bộ phận sinh dục nữ. Bướm chữ Nho là Điệp 蝶 nhưng sách Quảng Vận lại ghi một âm rất lạ của nó là Thiếp 帖 “Tha hiệp thiết, âm thiếp – 他協切, 音帖”. Chữ Thiếp này hình thanh bởi chữ Chiêm 占 mà tiếng Quảng Đông ngày nay đọc là [zim3] (chim) và tiếng Mân Nam đọc là [ʦiam55] (gần như chiêm). Có lẽ đây là hậu quả của quá trình nói tránh khá lắt léo, để giảm đi sự dung tục trong ngôn ngữ của cha ông chúng ta.

Trang Tử (369 BC – 286 BC) là một trong những thánh tổ của Đạo giáo. Ông tu tập tại Nam Hoa sơn và khi mất cũng được táng nơi ấy, cho nên còn có hiệu “Nam Hoa chân nhân”. Các trước tác của Trang Tử được tập hợp thành sách kinh điển “Nam Hoa kinh”. Câu chuyện Điệp mộng 蝶夢 của Trang Tử đã trở thành điển cố Á Đông và thấm rất sâu vào Việt ngữ.
Điệp mộng 蝶夢 là câu hỏi triết học về hư và thực. Trang Tử không chắc mình nằm mơ (mê 迷) thấy bướm (điệp 蝶) hay bướm ôm giấc (giác 覺) mộng thành người.
Chữ Điệp 蝶 còn có các âm Chiêm và Thiệp/Thiếp (căn cứ theo sách Quảng Vận đã dẫn), do vậy Giấc Điệp hay Điệp Mộng tức đi vào giấc ngủ được tiếng Việt giản hóa thành Thiếp, Thiêm Thiếp hay Chiêm. Nguyễn Trãi và Nguyễn Du đã kí âm Chiêm này vào thơ của mình thành “Chiêm Bao – 占包”, ngụ ý giấc mộng.

Là một xã hội phụ hệ lâu đời. Việt ngữ cũng có vẻ ưu ái nhiều từ để chỉ sinh thực khí nam hơn nữ, dưới những logic có thể dễ dàng nhìn thấy:

1. Buồi – Hán âm: Cái đuôi mọc ngược – Vĩ 尾, tiếng Mân ở Tiên Du – Phúc Kiến đọc là [puoi32]. Tuy tiếng Việt và tiếng Mân tương đồng nhưng chúng tôi xác định đây là Hán âm còn lưu tồn, có thể đến Việt ngữ thông qua Mân ngữ vì chữ Nho mô tả hành vi tính dục là Giao Vĩ 交尾.

2. Lồn – Hán âm: Đường âm Đồn 臀 chỉ hạ thể. Tiếng Bắc Kinh và tiếng Mân Nam ở Hạ Môn hiện nay đọc là Thủn [tʰun35]. Thật ra Thủn là kết quả khinh hóa và tạo âm gió một cách làm sang của âm Tủn gốc vẫn tồn tại trong tiếng Việt dân dã mà thôi. Tủn mới là thể cổ của Thủn và (cùng vời Hĩm) trở thành xú danh gọi ở nhà cho các bé gái với tín điều rằng tên càng xấu càng dễ nuôi, ma quỉ không thèm bắt.

Ngoài ra Thí Cổ 屁股 mang nghĩa hạ thể, cái đít. Chữ Cổ 股 này tiếng Mân Nam tồn tại cả 3 âm rất hay được sử dụng trong tiếng Việt. Triều Châu đọc là [kou53] đây chính là Câu trong Phao Câu. Hạ Môn lại đọc là Cò [kɔ53] và Kiến Âu nói thành Cu [ku21].

Tủn, Cò và Cu đều là xú danh dân gian.

3. Cặc – Đường âm: Cái sừng cô đơn dưới hạ thể – Giác 角, tiếng Mân Triều Châu ở Sán Đầu và Việt Nam, cũng như hai miền nam bắc của chúng ta đều đọc là [kak2].

4. Cu – Đường âm: Cái đầu rùa – Quy 龜, tiếng Việt và tiếng Mân Hạ Môn đều đọc là [ku55]. Cũng nên phân biệt âm Cu nói tắt Thí Cổ 屁股 mà đôi khi được đọc thành Khu.

Dấu vết Phồn thực 繁殖 trong tinh hoa văn hóa Việt bắt nguồn từ Trung Nguyên, muộn nhất là ở hai thời đại Chu và Hán. Sinh thực khí 生殖器 được biểu hiện rất kín đáo và thanh nhã, không hề lồ lộ trần tục như linga và yoni gốc rễ từ văn minh Ấn Độ. Sách Lễ Kí thời Chu qui định tứ linh gồm Lân 麟 – Phụng 鳳 – Quy 龜 – Long 龍. Phụng鳳 là con thần điểu giống đực, giản xưng của Phụng Điểu 鳳鳥. Bản thân Phụng là sự kết hợp bởi chữ Điểu 鳥 bên trong và chữ Phàm 凡 bên ngoài. Âm Điểu và Quy đều chỉ sinh thực khí nam giới. Từ ghép Phụng Lữ 鳳侶 còn chỉ sự phối ngẫu, cho nên đám cưới của người Việt hàng ngàn năm nay đều thấp thoáng biểu tượng chim phượng trong bố trí phông nền, trang phục.

Rùa và chim phượng hoặc biến thể của nó như Hạc xuất hiện ở mọi nơi thờ tự cá nhân lẫn tập thể, từ đình chùa miếu mạo đến rất nhiều kiến trúc văn hóa cũng như lịch sử. Đây chính là phiên bản linga và yoni của Nho – Lão Á Đông mà nhiều người còn chưa nắm được. 

Đít – Đích – Địt – Địch

Chiếu, chữ Nho là Tịch 席. Tiếng Mân, hiện chỉ còn thấy lưu tồn tương đồng tuyệt đối với tiếng Việt ở thể [tsʰiau13] tại Phủ Điền – Phúc Kiến. Trong khi đó âm Tiệc của nó trong Yến Tiệc tức Yến Tịch 宴席, Tửu Tiệc tức Tửu Tịch 酒席, thì rất phổ biến [seik2] (Phúc An – Phúc Kiến), [tsiek53] (Trung Sơn – Quảng Đông), [tsiɛk22] (Nhân Hóa – Quảng Đông)… Âm Nôm – Tiệc cũng là cách đọc chữ Tịch 席. Một lần nữa từ nguyên đã chỉ ra thói quen sinh hoạt cổ đại ở Á Đông: Trải chiếu xuống đất hoặc trên giường/sập/phản, tụ họp ăn uống – gọi là mở Tiệc.

Tịch trong quốc tịch cũng có một nghĩa là cái chiếu, nhưng chữ là Tịch 籍. Chủ Xị là Mân âm hiện tại của Chủ Tịch 主席, từ nay nên hiểu là chủ tiệc. Tịch nghĩa đen là cái chiếu, do đó chỗ ngồi cũng gọi là Tịch. Chủ Tịch 主席 vốn chỉ đầu lĩnh, cận đại được dùng để dịch thuật ngữ chính trị President hoặc Chairman từ phương Tây. Quan hệ [ich] [iếc] này có thể liệt kê một chuỗi từ: Tích 惜 -> Tiếc. Chích 只 -> Chiếc. Bích 碧 -> Biếc…

Từ Đường âm Tịch 席 đã phát tán một loạt từ và âm liên quan đến phần hạ thể và cả tính giao trong tiếng Việt. Tạ 褯 bộ Y 衣, âm gốc Tịch 席 chỉ cái tã lót. Nếu Tịch 席 đã chỉ chỗ ngồi thì việc nó phủ nghĩa ra cả cái bàn tọa (mông, đít) là rõ ràng. Do biến âm T/Đ (như tồi bại = đồi bại), Tịch 席 biến thành Đích (giọng nam bộ, chỉ hạ thể phía sau) và Địch (động từ chỉ việc xì hơi từ Đích). Đích được khinh hóa khi phát âm nên đã trở thành Đít trong giọng Hà Nội.

Muốn tính giao thì phải “đồng tịch – cùng chiếu” do đó sinh ra động từ Địt ở miền bắc Việt Nam. Vô hình chung Địch và Địt ở hai miền mang nghĩa khác nhau, dẫn đến những hiểu lầm rất tai hại. Người Hà Nội không thể hiểu tại sao người Sài Gòn có thể “vừa đi vừa địt” trong khi câu nói chính xác là “vừa đi vừa địch”.

Những năm 1970 và 1980 thanh thiếu niên chúng tôi ở Sài Gòn hay dùng từ lóng Chịch chỉ tính giao. Đây chính là tiếng Quảng Đông khi đọc chữ Tịch 席 mà thôi.

Đụ mẹ – Đụ má – Đù má

Trong tiếng Quảng Đông ở Chợ Lớn, câu chửi tục nhất là Điếu Lão Mẫu 屌老母, phiên âm IPA [diu2 lou5 mou5] nghe gần như Tỉu Lụ Mụ. Đôi khi nó được giản hóa thành Lụ Mụ. Âm Lụ của chữ Lão 老 cũng không hề xa lạ với Việt ngữ nếu bạn đọc nhớ đến từ “lụ khụ”.

Chính Lụ Mụ đã được người miền nam Việt Nam dịch nghĩa một nửa Mụ = Mẹ và Má, cùng với biến âm L/Đ như Lồn/Đồn ở trên để thành ra “Đụ mẹ”, “Đụ má” và “Đù má”. Biến âm L/Đ cực kỳ phổ biến, để tránh nhầm lẫn và giúp con cháu không quên nguồn cội Hán Đường, ông cha ta đã sáng tạo rất nhiều từ đẳng lập đồng nguyên: là đà, lác đác, lao đao, lảo đảo, lù đù, lừ đừ…

Người Quảng Đông chỉ bắt đầu ồ ạt tràn đến miền nam Việt Nam làm ăn buôn bán và định cư khi thực dân Pháp cưỡng bức Bắc Kinh để thuê Quảng Châu Loan từ năm 1898. Do đó có thể ước đoán âm “Đụ mẹ”, “Đụ má” hay “Đù má” sẽ là ngôn ngữ chợ búa bắt đầu thịnh hành vào quãng thời gian này trở đi. Trước đó chắc chắn tiếng Việt dùng Đường và Mân âm “Địt và Đéo” là chủ yếu.    

Uế ngữ và Mạ ngữ

Uế (穢) ngữ là ngôn ngữ thô tục dùng thể hiện sự quá khích tự thân hay nhấn mạnh khẩu khí như Mẹ Nó hay Bà Mẹ Nó, tiếng Bắc Kinh nói gần y hệt Tha Ma Đích 他媽的.

Mạ (罵) ngữ hoặc Mạ Lị (罵詈) ngữ chuyên dùng để lăng mạ, nhục mạ kẻ khác, chẳng hạn Đéo Mẹ Mày. Hiện nay tiếng phổ thông ở Trung Quốc dùng cụm Sáo Nễ Ma 肏你媽. (Âm Sáo là do tôi tạm dùng, căn cứ trên các từ đồng âm trong tiếng Quảng Đông, vì chưa thấy ai tìm hiểu và không có trong tự điển). Sáo 肏 hội ý ghép bởi chữ Nhập 入 (vào) và Nhục 肉 (xác thịt). Nhiều khả năng chữ Sáo 肏 chỉ được người Hoa cận đại sáng tạo để nói tránh cho bớt tục, sớm nhất xuất hiện ở tiểu thuyết Kim Bình Mai (cuối thời Minh) và Hồng Lâu Mộng (giữa nhà Thanh).

Đài Loan còn dùng cụm từ Gian Nễ Lão Sư 姦你老師 nghĩa là quan hệ xác thịt với bậc thầy đối phương. So với “Tiên Sư Cha Mày” trong tiếng Việt thì còn thấp hơn một bậc vì Tiên Sư là thầy của mọi ông thầy, bất kể già (lão) hay trẻ. Tiên sư của Nho là Khổng Tử, tiên sư của Đạo giáo là Lão Tử… Cũng xin ghi nhận rằng Tổ Ma 祖媽 (Tổ Mẹ) là một tiếng chửi khá phổ biến trong tiếng Mân Nam và Mân âm Hạ Môn hiện nay đọc là Chó Má [ʦɔ53 mã53].

Tiếng Khách Gia và Quảng Đông được xem như bảo tồn khá tốt ngôn ngữ Á Đông trung cổ đều dùng chữ Điếu: Điếu Nhược Mỗ 屌若姆 và Điếu Lão Mẫu 屌老母, viết khác nhau, đọc rất giống nhau và nghĩa thì hoàn toàn tương đồng với Đéo Mẹ Mày. Đôi khi chúng được lược bớt từ tục nhất đi, để thành Nễ Lão Mẫu 你老母 tức (Đéo) Mẹ Mày.

Biến âm – Biến thanh – Biến vận và Biến điệu

Các từ và âm trong bài viết này phần nào đã chỉ ra bốn hình thái phát triển và biến đổi ngữ âm tiếng Việt cơ bản trong suốt lịch sử mà e rằng chưa có tài liệu ngôn ngữ học nào đề cặp. Quy luật này nhìn thấy được ở mọi ngôn ngữ phổ dụng trên thế giới, kể cả tiếng Hoa. Rất nhiều chữ Nho và Nôm thoáng như có vẻ viết một đàng, đọc một nẻo, nhưng thực ra chúng xáo trộn các âm của các thời đại và tuân theo quy luật biến đổi về âm, thanh, vần, điệu…

Biến âm bằng cách tráo đổi, có thể là vòng tròn các phụ âm đầu: L/Đ như Điểu/Lẹo, Đồn/Lồn, Lụ/Đụ. Đ/T như Điểu/Tỉu,  Đồn/Tủn, Tịch -> Đít, Đích, Địt, Địch. L/N như Lẹo/Nẹo.

Biến thanh là để sắp xếp lời nói lên bổng xuống trầm hài hòa dễ nghe, giống như hòa điệu trong âm nhạc. Ở trên chúng tôi từng ví dụ chữ Tiểu 小 đã biến hóa cho ra một loạt thanh bằng trắc khác nhau. Một trường hợp khác là chữ Lợi 利 với dải biến thanh bạch thoại Lời, Lãi, Lai, Lì (trong lì xì)… Hay như Điếu/Điểu -> Đéo, Lẹo, Nẹo.

Biến vận là trường hợp chúng tôi chưa đi sâu nhất nhưng nội dung ở đây cũng chỉ ra các cặp Chiêm Chiếp, Thiêm Thiếp. Các cặp biến vận như Tôm Tép tiếng Việt bạch thoại dùng cả hai âm và Tép chỉ con Tôm nhỏ. Nhưng ở trường hợp Niêm Niếp (Niêm 黏 nghĩa là dính) thì chỉ dùng từ duy nhất Niếp và biến âm thành Nếp (gạo nếp, lúa nếp)…

Biến điệu: Khinh hóa như đã đề cặp, tức là phát âm nhẹ đi, tạo âm gió giúp cho tiếng nói mang vẻ sang trọng hơn như Thủn/Tủn, Đít/Đích, Địt/Địch.

Kết luận

Nhìn qua phần lớn các âm phổ dụng chỉ tính giao hay sinh thực khí trong tiếng Việt, mỗi Điểu/Điếu là trực tiếp. Còn lại đều là sản phẩm nói tránh rất tế nhã, dường như là ngôn ngữ của quý tộc Hán Đường ly khai lập quốc. Ngay cả âm Lồn cũng có từ nguyên Đồn chỉ hạ thể nói chung, chứ không cụ thể và nhơ bẩn như chúng ta hằng lầm tưởng.

Chính hệ thống ký âm đầy lỗi và không chuẩn của các nhà truyền giáo phương tây đã khiến người Việt đánh mất rất nhiều cái hay cái đẹp trong lời ăn tiếng nói của tổ tiên mình, gây hiểu lầm cho bản thân Việt ngữ, rồi mới đến sự tréo ngoe giữa phương ngữ các vùng miền.

Li khai đế quốc Đại Đường đang tan rã, bởi những quan chức địa phương của chính mình, Đại Việt có nền tảng ngôn ngữ và phong tục Hán Mân đại chúng và văn hóa Hán Đường. Yếu tố Mân được xây dựng từ các lưu dân Mân Việt khi Cao Biền tái lập Đại La vừa trải qua diệt chủng và tàn phá bởi Nam Chiếu, rồi liên tiếp được bổ sung người nhập cư, từ tổ tiên nhà Lý đến tổ tiên nhà Trần trở đi.

Đây là cơ sở tạo nên tính đồng nhất Hán Đường Mân của Đại Việt, cố kết một dân tộc bền vững. Các cuộc di cư và di dân tiếp theo đó vào các thời Tống – Minh – Thanh vì đa số gốc Mân, nên đã dễ dàng hòa hợp và hòa tan chỉ sau vài đời.

Khi thực dân Pháp nô thuộc Việt Nam và chiếm Quảng Châu Loan làm tô giới gộp chung vào Liên bang Đông Dương, người Quảng Đông mới có cơ hội mạnh mẽ tràn sang buôn bán và lập nghiệp ở nhiều đô thị Đại Việt. Họ đã tạo nên những China town lấy tiếng Quảng làm ngôn ngữ giao thương chủ yếu, cho cả những người gốc Mân mới đến. Tiếng Quảng Đông gốc Hán Đường, thiếu yếu tố Mân. Phong tục Quảng không có nhuộm răng, ăn trầu, cải táng. Văn hóa Quảng nặng chất Đường Tống hơn. Các yếu tố này đã tạo ra khoảng cách lớn giữa họ với người bản địa và chưa kịp dung hợp thì đã đến thời hiện đại.

Có người cứ nhất quyết cho rằng Tũn không phải tên xấu mà nói tắt của Lũn Tũn, mặc dù Tủn, Cò, Cu đã kết hợp với nhau rất chặt chẽ để chỉ rõ nét văn hóa dân gian. Thật ra Lon Ton và Lũn Tũn phát nguyên từ chữ Đoản 短, nghĩa là lùn. Bản thân Lùn là biến âm của Đoản 短, y hệt Lồn/Đồn 臀. Nhiều phương ngữ Quảng Đông hiện vẫn đọc chữ Đoản là Tủn [tun42/52/33]. Đây là cái bẫy đồng âm mà người tra cứu từ nguyên nào cũng ít nhiều gặp phải. Càng yếu tiếng Việt thì càng nhiều sai lầm. Yếu như các “học giả” tây thì chỉ viết ra toàn rác rưởi!

Sài Gòn – Tây Giang 5.2021

@ Trương Thái Du