Sách Công Dư Tiệp Ký của Vũ Phương Đề vào thế kỷ 18 ghi nhận truyền thuyết dân gian vẫn kể vua Đinh Bộ Lĩnh là con của rái cá. Đây là dấu vết totem của người Ngô – Việt ở ven sông Dương tử đã được Sử Ký và Hậu Hán Thư ghi nhận.
Sang đến họ Lý, nếu các dấu vết totem chó và rái cá vẫn còn ẩn khuất như Lý Công Uẩn sinh năm Tuất, có điềm làm vua từ đốm lông chó (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư), có tục thờ chó mà đền Cẩu Nhi vẫn còn tồn tại giữa lòng Hà Nội đến hôm nay là một minh chứng, thì sử Trung Quốc lại rất chi tiết. Sách Tốc Thủy Ký Văn của Tư Mã Quang, Bắc Tống (960 -1127) có chép một bức thư của tiến sĩ Từ Bách Tường gửi vua Lý từ Lĩnh Nam: “大王先世本閩人,聞今交趾公卿貴人多閩人也 – Tổ tiên của đại vương vốn là người Mân, tôi còn nghe nói hiện nay công khanh quý tộc xứ Giao Chỉ có rất nhiều người Mân nữa”.
Ảnh: Tượng chó tại đền Cẩu Nhi – Hà Nội. Dấu tích totem Cẩu và Thủy Cẩu (rái cá) của người Âu Việt thời Chiến Quốc.
Nhà Trần tiếp nối nhà Lý, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: “Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá”.
Như vậy Trần Thái Tông Trần Cảnh là đời thứ năm của một gia tộc có gốc tích từ nước Mân Việt thời Tây Hán. Năm 202 BC Cao tổ phong hậu duệ Câu Tiễn làm Mân Việt vương. Năm 193 BC Huệ đế chia để trị, lại tách Mân Việt làm hai gồm Mân Việt và Đông Âu. Ngoài Đông Âu còn có Tây Âu, tương đương Đông Việt và Tây Việt. Thời Tống, Tư Mã Quang không dùng Đông Âu mà viết thành Đông Việt trong các sự kiện lịch sử liên quan. Do đó rõ ràng Âu = Việt. Hán sử hiểu rất rõ Âu Việt là từ đẳng lập đồng nghĩa như chúng tôi đã chứng minh trong Nguồn gốc quốc danh Việt Nam.
***
Chỉ với sử liệu, chúng tôi đã có những bằng chứng không thể bác bỏ rằng hoàng gia, công khanh, quý tộc Đinh – Lý – Trần có gốc Mân Việt tức Âu Việt và đất phát tích của họ là tỉnh Phúc Kiến – Trung Quốc ngày nay. Tuy nhiên dấu vết ngôn ngữ mới là điều chúng tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh ở đây.
Thật vậy, năm 1288, sau chiến thắng Nguyên Mông, tại lễ báo công ở Chiêu Lăng thờ Trần Thái Tông Trần Cảnh, vua Trần Nhân Tông đã viết hai câu thơ bằng Hán tự: 社稷兩回勞石馬,山河千古奠金甌 – Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim Âu!
Sử gia Trần Trọng Kim dịch: Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng. Trang web Thi Viện dịch nghĩa: Trên nền xã tắc hai lần ngựa đá phải mệt nhọc, Nhưng núi sông nghìn đời được đặt vững như âu vàng.
Chữ Điện 奠 nghĩa là Định lập, kiến lập. Các bản dịch Việt ngữ hiện đại đều diễn nghĩa thành vững bởi vì họ hiểu Kim Âu là cái chậu, cái âu bằng vàng. Chúng tôi chắc chắn rằng Trần Nhân Tông hiểu Kim Âu là quốc thổ, chữ Âu đồng âm với chữ Việt trong Mân ngữ của tổ tiên nhà Trần. Chả ai định lập cái chậu cả, dù là chậu vàng. Đây là sự ấu trĩ và vô tri khi dịch chữ Hán trên tự vị, tức word by word, thiếu biện chứng lịch sử.
Thật ra, cách đây gần 20 năm, khi bắt đầu tiếp xúc và say mê khám phá sử Việt, chúng tôi đã hiểu Âu mang nghĩa Đất Nước, tương đồng nhưng không tương đương Land trong tiếng Anh. Do lúc ấy kiến văn còn lõm bõm, thiếu các công cụ và sử liệu trực tuyến như ngày nay, chúng tôi đã không thuyết phục được người đọc. Thậm chí tác giả An Chi còn viết báo, thẳng thừng phản bác chúng tôi như sau: “Làm sao mà chữ Âu trong thơ của Trần Thánh Tông lại có thể có nghĩa là “đất” khi mà nó là tiếng Hán rặt ròng, tiếng Hán 100%. Chữ “Âu” của Trương Thái Du có nghĩa là “đất” hay không là một chuyện chứ chữ Âu 甌 của Thánh Tông nhà Trần thì dứt khoát phải là “tiểu bồn dã” (chậu nhỏ vậy), “vu dã” (chậu vậy) như đã cho trong Từ hải (nghĩa 1 & 2) và tất cả các quyển từ điển tiếng Hán khác”.
Nghĩa hai câu thơ của vua Trần nên hiểu như sau: Xã tắc hai lần làm ngựa đá phải mệt nhọc. Non sông định lập từ ngàn xưa (đến nay) vẫn trọn vẹn cương thổ.
Hồ Quý Ly cũng từng cải tên núi Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) thành Kim Âu. Chữ Âu trong Kim Âu là phương ngữ Giang – Hoài tức Âu Việt. Kim Âu là Mân Ngữ Phúc Kiến, mang nghĩa quốc thổ toàn vẹn. Nhà Trần và nhà Hồ ở Việt Nam đã dùng Kim Âu vừa để chỉ cương thổ, vừa nhắc nhớ nguồn gốc Âu Việt của hoàng gia và một phần giới tinh hoa. Vì theo nhà ngôn ngữ học quốc tế người Nga G. S. Starostin, phương ngữ Phúc Châu ngày nay vẫn đọc Việt 越 là [ou?] hoặc một kiểu biến âm khác là [ok]. Lừng lững sau hai câu thơ của Trần Nhân Tông là non sông Đại Việt với chữ Việt đồng âm cùng chữ Âu.
Như vậy gốc tích của từ Việt trong quốc danh Đại Việt chỉ bị quên lãng bắt đầu từ nhà Lê. Từ đó dẫn đến việc người Việt Nam không thể hiểu tên nước của mình nghĩa là gì trong gần 600 năm. Cho đến khi chúng tôi đề xuất nghĩa của từ Việt chính là Nước và Âu Việt là từ đẳng lập gần đồng âm và đồng nghĩa chỉ nước Đại Việt của bá vương Câu Tiễn!
Phodong Village 11.2017
@T.T.Du
Recent Comments