Ngày 18.3 (âm lịch) năm 1292 Trương Lập Đạo dẫn đầu sứ đoàn nhà Nguyên đến Thăng Long. Ngày 19.3 tại Sứ quán, Thế Tử nhà Trần hỏi Lập Đạo đi đường chắc mệt nhọc lắm (驅馳 khu trì), Nguyên sứ trả lời: “天子不以越南為逺何以驅馳 – Thiên tử bất dĩ Việt Nam vi viễn hà dĩ khu trì”.
Bản dịch An Nam Chí Lược của Viện Đại Học Huế năm 1960 ghi: “Thiên tử không cho rằng nước An Nam là nơi xa cách, thì sứ thần ngại gì xông pha”. Một số người thông thạo Hán tự cho rằng Việt là vượt, nam ý chỉ phía nam, đại khái phải hiểu như sau: “Thiên tử không cho rằng đi phượt về phương nam là xa xôi thì làm sao dám mệt mỏi”.
Tuy nhiên An Nam Chí Lược không chỉ nhắc đến từ kép “Việt Nam” một lần duy nhất. Sau đây là các dẫn chứng tiếp theo.
- Khoảng năm 1321, bài thơ phụng dâng vua Trần Minh Tông tựa đề “Tặng thế tử Thái hư tử” của Lang trung Văn Tử Phương trong sứ đoàn nhà Nguyên có hai câu:
從此君臣保民社 – Tòng thử quân thần bảo dân xã
主恩長畀越南人 – Chủ ân trường tí Việt Nam nhân
Diễn nghĩa: Từ đây vua tôi của ngài gắng sức bảo vệ nhân dân và xã tắc. Ơn trên mãi mãi ban xuống cho người Việt Nam.
- Khoảng năm 1285 hoặc 1286, Trần Ích Tắc được vua nhà Nguyên đãi yến tiệc ở núi Vạn Tuế. Sự việc được chính họ Trần mô tả trong bài thơ “Vạn tuế sơn yến thị nhật trị tuyết” dưới bút danh Thiện Lạc lão nhân. Hai câu cuối:
越南羈旅陪班列 – Việt Nam ki lữ bồi ban liệt
咫尺光昭日月新 – Chỉ xích quang chiêu nhật nguyệt tân
Diễn nghĩa: Đoàn lữ khách Việt Nam từ phương xa được (ưu ái) xếp đặt ngồi ăn tiệc. Chỉ cách hào quang nhật nguyệt của thiên tử (nhà Nguyên) trong gang tấc.
- Cũng vào khoảng thời gian ở trên, An vũ sứ người Việt là Lại Ích Khuy trong bài “Nguyên nhật triều hội” tường thuật một buổi chầu đầu năm, mở đầu bằng hai câu xu nịnh:
聖日垂光被越南 – Thánh nhật thùy quang bị Việt Nam
驛亭官栁許停驂 – Dịch đình quan liễu hứa đình tham
Diễn nghĩa: Ánh mặt trời thần thánh (của Nguyên triều) trùm phủ đất Việt Nam. (Đến nỗi) ngựa cũng phải dừng lại ở gốc liễu trạm dịch (để bái vọng?).
- Cuối cùng cũng là năm 1292, trong sứ đoàn Trương Lập Đạo đã dẫn, bốn câu thơ tự sự của Lang trung Trần Cương Trung, người Chiết Giang, đất cũ Âu Việt có từ ghép Việt Nam như một xứ sở:
老母越南垂白髪 – Lão mẫu Việt nam thùy bạch phát
病妻燕北待黃昏 – Bệnh thê Yên bắc đãi hoàng hôn
蠻烟瘴雨交州客 – Man yên chướng vũ giao châu khách
三處相思一夢魂 – Tam xứ tương tư nhất mộng hồn
Diễn nghĩa: Mẹ đã già ở đất Việt phương nam xõa tóc trắng. Vợ đang bệnh chốn Yên bắc đợi hoàng hôn. (Trong khi đó tôi) lại phải làm khách Giao châu nơi sương hại mưa độc. Ba xứ ấy cứ quẩn quanh suy tưởng trong một giấc mộng.
***
Như vậy chỉ trừ Việt Nam trong thơ Trần Cương Trung nghĩa là đất Âu Việt xưa (Chiết Giang) ở phía nam để đối với đất Yên phía bắc (nơi có kinh đô nhà Nguyên), cả 4 ngữ cảnh còn lại đều có thể hiểu Việt Nam chính là Đại Việt hoặc An Nam.
Điều đó có nghĩa là tên gọi Việt Nam có tuổi đời trên 700 năm, dài hơn bất cứ mốc thời gian nào mà giới sử học từng đưa ra. Quan điểm biện chứng và phi tuyến tính của chúng tôi như sau:
- Đại Việt: Quốc danh thể hiện sự tự tôn, chứa hào khí Nam Việt xưng đế của Triệu Đà, hùng khí Đại Việt của Bá vương Câu Tiễn, tổ tiên nhà Trần ở cửa sông Dương Tử.
- An Nam: Quốc hiệu miệt thị của các triều đình phương bắc, ngụ ý tiểu quốc phải ngoan ngoãn chầu cống. Họ bỏ từ tố quan trọng nhất, chứa đựng bản sắc mấy ngàn năm của một cộng đồng văn hóa đặc thù là (Âu) Việt, ven biển từ cửa sông Dương Tử đến Việt Nam. Tương tự khi ta gọi ai đó là chú nhóc ngoan, mà chẳng cần tôn trọng tên riêng của nó.
- Việt Nam: Là giải pháp ngoại giao dung hòa 1 và 2, bỏ hai tính từ “đại” và “an”.
Ở góc nhìn này, tên gọi Việt Nam phải được xem như thành quả ngoại giao cương trực của Đại Việt trong hàng ngàn năm qua, nhằm xác định quyền độc lập và tự chủ của quốc gia. Sử học xưa nay chỉ ghi chép và lý giải tuyến tính các sự kiện, thiếu hẳn công tác đúng đắn là tái lập tư duy của cổ nhân trên sử liệu. Do đó người ta đã không bắt được ý tại, trong cái vỏ ngôn ngoại đơn giản đến thô lược, không phù hợp với truyền thống Á Đông thâm trầm và sâu sắc.
@01.3.2018
T.T.Du
Jan 01, 2019 @ 00:08:59
Apr 25, 2018 @ 16:27:52
Reblogged this on tongocthao.
Apr 17, 2018 @ 22:09:23
Mar 07, 2018 @ 09:45:57
Đại Việt sử kí toàn thư – Lí bản kỉ: 乙酉天彰有道二年冬十月,下詔曰:「自古南越帝王,治天下者有矣。惟我李受天眷命,奄有四海,列聖相承,二百餘年,奈以上皇嬰疾,承統無人,國勢傾危,命朕受明詔,勉強即位,自古已來未之有也。…」Ất Dậu Thiên Cương Hữu Đạo nhị niên đông thập nguyệt, hạ chiếu viết: “Tự cổ Nam Việt đế vương, trị thiên hạ giả hữu hĩ. Duy ngã Lí thụ thiên quyến mệnh, yểm hữu tứ hải, liệt thánh tương thừa, nhị bách dư niên, nại dĩ thượng hoàng anh tật, thừa thống vô nhân, quốc thế khuynh nguy, mệnh trẫm thụ minh chiếu, miễn cưỡng tức vị, tự cổ dĩ lai vị chi hữu dã…” (Tuế thứ Ất Dậu, năm Thiên Chương Hữu Đạo thứ hai [năm 1225], mùa đông, tháng mười, hạ chiếu rằng: “Đế vương của nước Nam Việt từ xưa trị thiên hạ đã có rồi. Họ Lí ta vâng theo mệnh trời, nắm cả bốn cõi, liệt thánh nối nhau đã hơn hai trăm năm, nhưng nay vì thượng hoàng [Lí Huệ Tông] mang bệnh, không có con trai nối dõi, thế nước nghiêng nguy, mệnh cho trẫm [Lí Chiêu Hoàng] nhận minh chiếu, gượng ép lên ngôi, từ xưa đến nay chưa từng có như vậy…”)
An Nam chí lược – Tự tự (Nguyên – Lê Trắc soạn): 僕生長南越,竊祿仕途,十歲間奔走半國中,稍識山川地理。內附聖朝,至是五十餘年矣。… 庸表天朝德化所被,統一無外,而南越其有惓惓向慕朝廷之心,亦可概見於此者。
Bộc sinh trưởng Nam Việt, thiết lộc sĩ đồ, thập tuế gian bôn tẩu bán quốc trung, sảo thức sơn xuyên địa lí. Nội phụ thánh triều, chí thị ngũ thập dư niên hĩ… Dung biểu thiên triều sở bị, thống nhất vô ngoại, nhi Nam Việt kì hữu quyển quyển hướng mộ triều đình chi tâm, diệc khả khái kiến ư thử giả. (Tôi sinh trưởng ở nước Nam Việt, trộm theo nghiệp làm quan, trong hơn chục năm rong ruổi khắp nửa trong nước, hơi biết địa lí sông núi. Nội phụ thánh triều đến nay đã hơn năm chục năm rồi…Thường nêu rõ đức hóa mà thiên triều bao bọc, thống nhất không bỏ sót ai ở ngoài, cho nên người nước Nam Việt có lòng tha thiết ngưỡng mộ triều đình, cũng thấy được qua như thế.
_________________________
Cũng có thể thấy ngoài tên gọi Việt Nam xuất hiện trong thơ văn để chỉ nước mình, người Đại Việt còn dùng tên gọi Nam Việt. Việt Nam hay Nam Việt chỉ là đảo lại lẫn nhau, nhưng thời Lí-Trần chỉ mang nghĩa là nước Việt ở phương nam, là một phần của nước Nam Việt xưa. Nhưng sang thời Nguyễn thì khác, tức là nói tên gọi Việt Nam đồng nghĩa với tên gọi Nam Việt, nhưng mang nghĩa là ghép giữ từ Việt Thường (越裳) và An Nam (安南) có từ thời nhà Nguyễn. Bởi thế ở cửa đền Hùng có câu văn rằng là 南越肇祖 – Nam Việt triệu tổ – Vị tổ mở đầu của nước Nam Việt. Câu văn ấy có nghĩa là vua Hùng họ Hồng Bàng là thủy tổ khai quốc của nước Nam Việt/Việt Nam là vùng đất An Nam và Việt Thường thời xưa.
Mar 04, 2018 @ 16:48:02
An Nam chí lược – Đại Nguyên phụng sứ (Nguyên – Lê Trắc soạn): 天子不以越南為逺何以驅馳 Thiên tử bất dĩ Việt Nam vi viễn, hà dĩ khu trì. (Thiên tử không cho rằng Việt Nam là nước xa xôi, tôi có sá gì vất xả khi đến đây?)
Một sứ giả thiên triều mà dùng từ trung dung như vậy thì kể cũng lạ? Tôi xem lời văn xuôi của các sứ giả thiên triều nếu không dùng từ An Nam thì cũng là Giao Chỉ, Giao Châu hoặc Giao Nam chứ không dùng từ Việt Nam hay Đại Việt. Không kể dùng từ Việt Nam trong thơ là cho hợp vần thơ Đường luật, nhưng đây là văn xuôi thì dùng từ An Nam hay Giao Chỉ gì chẳng được? Tôi đồ rằng tác giả Lê Trắc là người Việt Nam nên đã chủ ý dùng từ thay cho An Nam trong câu nói ấy.
Dù sao thì tên gọi Việt Nam đã thể hiện một bước đầu cho tên gọi Việt Nam ngày nay, dù chỉ xuất hiện trong văn thơ thôi, nhưng là bước đầu về nhận thức về độc lập tự chủ, ít nhất là tên gọi của đất nước thời quân chủ phong kiến. Về chính trị các triều đại Lí. Trần, Lê chỉ dám xưng hiệu Đại Việt trong nước thôi, với thiên triều phải chấp nhận tên gọi Giao Chỉ hoặc An Nam mà họ gán cho. Phải mãi đến thời nhà Nguyễn mới xin dùng tên là Nam Việt, mới được nhà Thanh đổi lại thành Việt Nam.
Mar 03, 2018 @ 18:00:49
欽定四庫全書
Khâm định tứ khố toàn thư
安南志畧卷十九
An Nam chí lược quyển thứ mười chín
元黎崱撰
Nguyên – Lê Trắc soạn
安南名人詩
Thơ của danh nhân người nước An Nam
崱十五首
Lê Trắc, có mười lăm bài
喜詔
Mừng nghe chiếu chỉ
黃雞催唱曉𤫩瓏
尺五飛來紫禁中
遂使堯言布天下
始知漢詔感山東
金甌已付經綸手
玉燭均調鼎鼐功
人頌太平無事日
村村秔稻颭香風
Tiếng gà giục giã sáng linh lung 41,
Gang tấc lăm xăm tới điện rồng,
Bèn khiến lời Nghiêu khắp thiên-hạ 42,
Mới hay chiếu Hán cảm Sơn-Đông 43.
Âu vàng phó mặc tay anh tuấn 44,
Đuốc ngọc đều nhờ bực tướng-công 45.
Gặp lúc thái-bình người rảnh việc,
Làng làng thơm nức lúa đơm bông.
Sáng tờ mờ.
Lời nói của vua Nghêu.
Lúc tờ chiếu của nhà Hán ban xuống, dân Sơn Đông đều cảm động.
Nghiệp nước vững như âu vàng.
Đuốc ngọc sáng tượng trưng thái bình, là nhờ có vị tể tướng giúp công (Điều hòa đỉnh nãi (cái vạc lớn), là công việc của tể tướng giúp nước bình trị, làm cho khí âm khí dương được điều hòa).
http://vnthuquan.org/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn1nnn31n343tq83a3q3m3237nvnmn
___________________________________
Bài thơ trên là bài thứ ba trong mười lăm bài thơ của tác giả Lê Trắc đã theo hàng nhà Nguyên. Bài thơ là cảm kích khi nghe chiếu chỉ của nhà Nguyên khi thu dùng mình.
金甌已付經綸手
玉燭均調鼎鼐功
Kim âu dĩ phó kinh luân thủ
Ngọc chước quân điều đỉnh nãi công
(Âu vàng đã giao cho tay kinh luân nắm giữ
Đuốc ngọc được tay đỉnh nãi xoay chuyển.)
Vậy kim âu (金甌) là hình ảnh tượng trưng cho quốc gia.
Mar 03, 2018 @ 17:44:18
欽定四庫全書
Khâm định tứ khố toàn thư
安南志畧卷十九
An Nam chí lược quyển thứ mười chín
元黎崱撰
Nguyên – Lê Trắc soạn
至元以來名賢奉使安南詩
Thơ của các danh hiền từng đi sứ đến nước An Nam vào những năm Chí Nguyên đến nay
郎中陳剛中
Lang trung Trần Cương Trung
老母越南垂白髪
病妻燕北待黃昏
蠻烟瘴雨交州客
三處相思一夢魂
Mẹ già ở đất Việt phía nam phơ đầu bạc,
Vợ ốm ở đất Yên phía bắc đợi bóng tà.
Còn ta (Trần Cương Trung) thì phụng mệnh đi sứ làm khách ở đất Giao Châu nơi khói chướng mù mịt,
Ở ba chốn nhớ nhau cùng trong một giấc mộng.
______________________________________
Bấy giờ sau cuộc chiến Việt – Nguyên lần thứ hai, nhà Nguyên sai sứ bộ do Lương Tăng sang Đại Việt để dụ hàng vua nhà Trần, trong đoàn sứ bộ ấy thì Trần Cương Trung làm phó sứ. Trần Cương Trung người Thai châu tỉnh Giang Chiết thuộc đất Việt ngày xưa. Mẹ già ở Thai châu, vợ con thì ở kinh thành Đại Đô thuộc đất Yên xưa, đi sứ đến nước Đại Việt tức là đất Giao châu thời nhà Hán. Bài thơ là tâm sự của Trần Cương Trung khi đi sứ đến nước Đại Việt, thói thường thì nhớ cha mẹ vợ con, cho nên làm bài thơ này.
Lão mẫu Việt nam thùy bạch phát
Bệnh thê Yên bắc đãi hoàng hôn
Cặp đối ngẫu Việt và Yên cũng được dùng như để chỉ đối lập nam-bắc, để chỉ tình cảnh éo le đối xứng trong thể thơ Đường luật. Ngày xưa phía bắc Trung Quốc là nước Yên, phía nam Trung Quốc là nước Việt. Còn gì éo le hơn vợ con ở phía bắc, mẹ già ở phía nam nữa? Còn mình thì đi sứ ở nơi xa mù mịt là Giao châu.
Do đó từ Việt nam (越南) ở câu thơ trên không phải là chỉ nước Đại Việt, chỉ là từ ví như nói về nơi biên giới phía nam của Trung Quốc mà thôi, đối lập với Yên bắc (燕北) vậy.
Mar 03, 2018 @ 17:17:35
欽定四庫全書
Khâm định tứ khố toàn thư
安南志畧卷十九
An Nam chí lược quyển thứ mười chín
元黎崱撰
Nguyên – Lê Trắc soạn
安南名人詩
Thơ của danh nhân người nước An Nam
內附安撫使頼益巋二首
Viên An phủ sứ (người nước An Nam) đã theo hàng là Lại Ích Khuy, có hai bài
元日朝㑹
Chầu hội vào ngày đầu năm
聖日垂光被越南
驛亭官栁許停驂
車書今混四方一
冠佩咸呼萬歳三
香吐翠雲龍闕潤
酒翻金海鳳簫酣
羣臣舞蹈天顔近
眷顧恩深雨露涵
Rọi khắp trời nam bóng thái-dương,
Dịch-đình gốc liễu ngựa dừng cương.
Ba lần, áo mão hô muôn tuổi 35,
Một dấu xa thư hệt bốn phương 36.
Hương nhả túy-vân hơi thấm nhuận,
Rượu nghiêng kim-hải sáo du-dương.
Bầy tôi múa nhảy, trời gang tấc,
Mưa móc ơn nhuần chúa đoái thương.
Trăm quan chúc thọ đến ba lần.
Bốn bể xa đồng dấu, sách đồng văn, ý nói nhất thống.
http://vnthuquan.org/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn1nnn31n343tq83a3q3m3237nvnmn
___________________
Bài thơ trên là bài đầu trong hai bài thơ của tác giả Lại Ích Khuy người nước An Nam, trước làm quan An phủ sứ ở sở tại, sau theo hàng nhà Nguyên, chầu hội ở thiên triều (Đại Đô, kinh đô của nhà Nguyên, thuộc thành Bắc Kinh ngày nay) vào ngày đầu năm, cảm kích mà làm bài thơ này. Cũng như những người An Nam khác theo hàng nhà Nguyên, cũng là thể hiện ý xu nịnh quy phụ thiên triều.
聖日垂光被越南
驛亭官栁許停驂
Thánh nhật thùy quang bỉ Việt Nam
Dịch đình quan liễu hứa đình tham
(Thiên triều nhà Nguyên như ánh nắng Mặt Trời rọi khắp nước Việt Nam,
Cho nên (Lại Ích Khuy) mới ngưỡng mộ đi theo dịch trạm đến kinh đô mà dừng ngựa ở dịch quán rồi vào chầu hội.)
Cũng như bài thơ của Thiện Lạc Lão Nhân, cũng là để hợp vần.
Không còn nghi ngờ gì nữa, tên gọi Việt Nam vô tình đã xuất hiện vào thời nhà Trần ngoài hai tên gọi Đại Việt và An Nam đã được người Việt Nam sử dụng.
Một số trường hợp sau đó cũng đã được dùng như tên gọi thứ yếu mà người Đại Việt tự xưng, ví như sĩ phu thời Trần là Hồ Tông Thốc gọi sách mình soạn là Việt Nam thế chí, sĩ phu thời Lê là Nguyễn Trãi cũng dùng từ Việt Nam để gọi nước mình.
Mãi đến thời Nguyễn thì vua Gia Long mới dùng tên nước chính thức là Việt Nam cho đến ngày nay nhưng với ý nghĩa khác với sĩ phu thời nhà Trần.
______________
Thanh sử cảo – Việt Nam liệt truyện
嘉慶七年十二月,阮福映滅安南,遣使入貢,備陳構兵始末,爲先世黎氏復讐;并言其國本古越裳之地,今兼并安南,不忘世守。乞以『南越』名國。帝諭以『南越』所包甚廣,今兩廣地皆在其内,阮福映全有安南,亦不過交趾故地,不得以『南越』名國。
Năm Gia Khánh thứ bảy (năm 1802), tháng mười hai, Nguyễn Phúc Ánh diệt nước An Nam, sai sứ vào cống, kể rõ việc dùng binh đánh dẹp (nhà Tây Sơn) trước sau, nói là giúp họ Lê đời trước mà báo thù, lại nói là nước mình (đất Đàng Trong của chúa Nguyễn) vốn là đất nước Việt Thường thời xưa, nay chiếm cả nước An Nam (đất Đàng Ngoài của vua Lê chúa Trịnh), không quên việc gìn giữ, xem lấy tên Nam Việt làm tên nước. Nhà vua (Thanh Nhân Tông) dụ rằng tên gọi Nam Việt (thời Hán của Triệu Đà) bao gồm rất rộng, có đất Lưỡng Quảng đều ở trong đó, vả lại Nguyễn Phúc Ánh đã chiếm cả nước An Nam, chẳng qua cũng chỉ là đất quận Giao Chỉ thời xưa, không được dùng tên Nam Việt làm tên nước.
嘉慶八年,改安南爲越南國。六月,命廣西按察使齊布森往封阮福映爲越南國王。
Năm Gia Khánh thứ tám (năm 1803), đổi tên nước An Nam thành nước Việt Nam. Tháng sáu, mệnh Án sát sứ Quảng Tây là Tề Bố Sâm đến phong Nguyễn Phúc Ánh làm Việt Nam quốc vương.
__________________
Vậy tên gọi Việt Nam ngày nay để chỉ đất nước từ Lạng Sơn đến Cà Mau, là ghép giữa An Nam và Việt Thường, tức là đất Đàng Ngoài và Đàng Trong thời vua Lê-chúa Trịnh-Nguyễn.
Mar 03, 2018 @ 16:43:08
欽定四庫全書
Khâm định tứ khố toàn thư
安南志畧卷十九
An Nam chí lược quyển thứ mười chín
元黎崱撰
Nguyên – Lê Trắc soạn
安南名人詩
Thơ của danh nhân người nước An Nam
內附安南國公善樂老人五首
Viên tước Công người nước An Nam đã nội phụ (theo hàng nhà Nguyên) hiệu là Thiện Lạc Lão Nhân, có năm bài.
萬歳山宴是日值雪
Dự yến ở núi Vạn Tuế hôm ấy trời có tuyết rơi
碧漢鳴鸞不動塵
玉京縹繞㑹星辰
舞回鼇背三山雪
酒上龍顔萬國春
物被仁風榮御苑
水涵聖澤溢天津
越南羈旅陪班列
咫尺光昭日月新
Bích-Hán loan kêu lắng bụi trần 9,
Ngọc-kinh nhấp-nhới họp tinh-thần 10.
Múa quanh Ngao-bối non phơ tuyết 11,
Rượu chuốc Long-nhan hội mở xuân 12.
Thấm khắp gió nhân cây Ngự-Uyển 13,
Dẫy đầy ơn Thánh nước Thiên-Tân 14.
Việt-Nam ky-lữ theo hàng ngũ 15,
Gang tấc gương soi nhật nguyệt gần.
Bích-Hán: sông Ngân Hán ở giữa trời xanh.
Tinh thần: các ngôi sao.
Ngao bối: (lưng con Ngao) cũng như Ngao Sơn là nơi tiên ở.
Long nhan: mặt rồng tức nhà vua.
Vườn của vua, cũng như Thượng Uyển.
Thiên Tân cũng như Thiên Hà, là sông Ngân-Hà trên trời.
Ky lữ là người khách ký ngụ ở nước ngoài.
_____________________________________
Bài thơ trên là bài thứ ba trong năm bài thơ của tác giả người nước An Nam đã theo hàng nhà Nguyên, không ghi họ tên, chỉ ghi hiệu là Thiện Lạc Lão Nhân. Bài thơ là lời tâm sự của kẻ làm khách đã theo hàng nhà Nguyên, được dự yến tiệc ở núi Vạn Tuế (không rõ ở đâu, nhưng là ở miền bắc Trung Quốc, khi ấy trời có tuyết rơi, có lẽ là đang mùa đông). Tác giả cảm kích nhà Nguyên đã thu nhận mình như là bầy tôi của thiên triều, cho nên làm bài thơ này.
越南羈旅陪班列
咫尺光昭日月新
Việt Nam ki lữ bồi ban liệt
Chỉ xích quang chiêu nhật nguyệt tân
(Kẻ khách trọ người nước Việt Nam được xếp ngang hàng với bầy tôi thiên triều,
Được gần gũi với ánh áng của Mặt Trời, Mặt Trăng chiếu rọi.)
Tác giả ví thiên triều như Mặt Trời, Mặt Trăng, và mình nội phụ theo hàng như được chiếu rọi vào. Đây là lời lẽ của kẻ theo hàng để xu nịnh thiên triều cũng là dễ hiểu. Nhưng ở chỗ là tự gọi mình là người Việt Nam thay vì An Nam, là vì thời nhà Trần có lẽ ngoài tên nước chính thức là Đại Việt thì sĩ phu trong nước có khi gọi là Việt Nam trong thơ văn, chỉ là để hợp vần trắc-bằng với thể thơ Đường luật vậy. Nếu dùng từ Đại Việt hay An Nam thay cho từ Việt Nam ở câu thơ trên thì không hợp vần.
Tên gọi Việt Nam ở câu thơ trên cũng có thể hiểu là tên ghép của từ Đại Việt và An Nam. Đại Việt là tự xưng trong nước, An Nam là tên nước được nhà Nguyên phong cho, nhà Nguyên từng phong cho vua Trần là An Nam quốc vương, cho nên vẫn gọi là nước An Nam.
@Tích Dã: Bác tự dịch đi, đừng copy, sẽ có nhiều cái hay đấy. Ý cuối của bác tôi đã viết trên facebook và trong bản thảo hẳn 1 chương sách rồi. Sẽ update khi hoàn thành. Thanks.