————————————————————— Phiên bản 27.8.2023

Gốc rễ bộ số đếm của một ngôn ngữ là dữ kiện rất quan trọng để xác định nguồn cội chính ngôn ngữ ấy. Học thuật tẩy não thực dân chỉ đưa ra được duy nhất âm Khmer [buon] gần tương đồng với Bốn ở tiếng Việt, chúng lờ đi trật tự Phi châu [con vật – số đếm] (ví dụ Chó Hai) khá đặc biệt ở tiếng Khmer, khác với hầu hết diễn đạt [số đếm – con vật] trong đó có tiếng Việt (Hai con Chó, Nhị chích cẩu, Two dogs). Đó là chưa kể lịch sử Việt Nam lâu dài hơn, có thư tịch ghi chép đầy đủ hơn và xưa hơn Khmer, thì tại sao lại không đặt vấn đề chính ngôn ngữ Khmer đã vay mượn tiếng Việt Hán?

Tóm tắt: Bộ số Việt ngữ là kết quả pha trộn rất nhiều trị số của các bộ số cổ đại Á Đông, tương tự như bộ số quan thoại Bắc Kinh hiện nay (Ất 乙/Nhất 一, Tứ 四/Tị 巳 chẳng hạn). Việc chúng tôi nhận ra một vài âm/số nằm ở cả hai bộ số, như Một trong ngũ phân là Mộc, trong Dịch số là Bác không đáng ngạc nhiên bởi vì âm của chúng dù đã qui hết về tiếng Đường vẫn rất gần nhau. Nhiều khả năng tiên khởi chỉ là một âm duy nhất, sau đó bị biến âm vô tình hay cố ý nhằm phân biệt.

Không/Khôn 坤; Một/Mộc 木/Bác 剝; Hai/Hỏa 火; Vài/Bỉ 比; Đôi/Đũa/Đối 對/Đoài 兌; Ba/Bính 丙; Tư/Tứ 四; Bốn/Bồ 扶/Phương 方; Lăm/Lima/Năm/Ngũ 五; Sáu/Lục 六; Bảy/Thất 七/Bĩ 否; Tám/Khảm 謙; Chín/Thân 申; Mười/Vạn 萬; Chục/Thúc 束.   

Các chữ màu đỏ liên hệ mật thiết với âm đếm cũng như trị số của nó trong tiếng Việt.

0. Các bộ số Á Đông

Người Á Đông có hầu hết các bộ số đã từng tồn tại trong các nền văn minh khắp nhân loại: Ngũ phân năm ngón tay trên một bàn tay, sau này chỉ sử dụng trong ngũ hành. Thất phân 7×4=28 chòm sao. Thập phân mười ngón tay trên một bàn tay, 10 thiên can, kết thằng tạo các nút dây. Thập nhị phân, 12 tháng một năm, 12 địa chi, 12 giờ một ngày. Nhị phân dịch, thuyết âm dương, khai sinh số không và số âm. Lục thập phân, lục thập hoa giáp là kết hợp ngũ phân với thập nhị phân. Thậm chí cả hệ 16, 16 lạng bằng 1 cân… Nếu số lớn nhất của nhị phân, ngũ phân, thất phân chỉ chia hết cho một và chính nó thì các hệ số càng lớn sẽ càng chia hết cho nhiều số hơn. Chẳng hạn mười chia hết cho 1,2,5,10; mười hai chia hết cho 1,2,3,4,6,12. Qua sự tiến hóa của bộ số, ta thấy được toán học và kèm theo đó là nhu cầu chia/chọn phần (trao đổi sản phẩm, thương mại, kế toán, thuế khóa), lịch pháp…

Xã hội Á Đông rõ ràng đã phân hóa rất sớm, đặc biệt cổ xưa. Hơn nữa, sự đa dạng của bộ số nói lên rằng văn minh Á Đông tổ thành từ ít nhất là hai nền văn minh độc lập. Việc lưu giữ một cặp số nhị phân Mộc/Hỏa/Một/Hai có tuổi đời ít nhất 3400 năm của tiếng Việt có lẽ là kỷ lục thế giới. Đây là minh chứng hùng hồn, tổ tiên người Việt chắc chắn phải là chủ nhân của một trong những nền văn minh lớn và rất sớm tại Á Đông.

Bộ số ngũ phân: Con người học đếm các số tự nhiên bắt đầu từ những viên sỏi hoặc các ngón tay trên một bàn tay. Chính vì vậy Calci nghĩa là đá sỏi, mới là từ nguyên của Calculate – tính toán. Digitus mang nghĩa các ngón tay, mới là từ nguyên của Digital – số. Bộ số ngũ phân Á Đông hãy còn lưu lại và rất biến ảo trong ngũ hành. Nó hoàn toàn tương đồng từ gốc với bộ số ngũ phân La Mã I, II, III, IIII hoặc IV, và V  cũng như Khmer Một (muoy), Hai (pir), Ba (bei), Bốn (buon), Năm (bram), Sáu = Năm Một (bramuoy)… hiện vẫn còn sử dụng trong đời sống thường nhật khắp địa cầu.

Nhị phân: Dịch số là hệ thống nhị phân cổ đại Á Đông biểu diễn các con số tự nhiên và hoàn toàn ăn khớp với nhị phân hiện đại của nhân loại. Lưỡng nghi âm và dương (1 bit) biểu thị số 0 và 1. Tứ tượng (2 bit) biểu diễn các con số từ 0 đến 3. Bát quái (3 bit) biểu thị các con số từ 0 đến 7. 64 quẻ (6 bit) biểu thị các con số tự nhiên từ 0 đến 63.

Các bộ số 10, 12, 16, 60: Bộ số Thập phân: Có hai bộ số thập phân song song ở Á Đông là Thập số (Nhất, Nhị, Tam..) và Thiên can (Giáp, Ất, Bính…). Bộ số Thập nhị phân: 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần…). Bộ số Thập lục phân: 16 thần của Thái Ất/Thái Nhất (Tí, Sửu, Cấn, Dần…). Bộ số Lục thập phân: Lục thập hoa giáp (Giáp Tí, Ất Sửu, Bính Dần..).

A. Tư, Sáu, Bảy, Chục, Mười

Số 4: Tư là âm bạch thoại của Tứ 四 chỉ số 4.

Số 6: Hiện nay ở Tùng Khê, Nam Bình thị, tỉnh Phúc Kiến, tiếng Mân Bắc đọc chữ Lục 六 là Sáu, kí âm IPA [sɒu41]. Biến âm L/S thực ra không hề xa lạ trong tiếng Việt như Lực 力/Sức, Liên 蓮/Sen, Lãng 浪/Sóng và Long 瀧/Sông… Ở Tùng Khê người Mân Bắc chỉ dùng duy nhất âm Sáu để đọc chữ Lục 六, trong khi Sùng An cạnh đấy dùng song song [ləu5] và [su5], Kiến Dương [ly4] và [so4] (hai địa phương này đều nằm ở Nam Bình thị). Dịch về phía tây nam Nam Bình, vẫn thuộc Phúc Kiến là Tương Lạc, Tam Minh thị, chúng tôi lại thấy hai âm đồng dụng [liu5] và [ʃu324] khi đọc chữ Lục六. Dữ kiện trên chỉ ra rằng biến âm L/S là một đặc trưng của tiếng Mân trung cổ. Tuy vậy gốc rễ của nó lại là Hán âm phương nam vì Hán Điển ghi nhận có đến 12 ngữ chi Khách Gia hiện đọc chữ Lục 六 bằng phụ âm đầu [t], có thể là do biến âm T/S. Tiếp tục truy cứu nhu liệu của Đại học Berkeley – California, chúng tôi ngờ rằng phụ âm đầu [s] trong Sáu là thể Hán Tạng cổ hơn [l]. Bằng chứng là rất nhiều ngữ chi như Tạng, Khương, Lolo, Miến Điện hiện đọc số 6 là [tʂhu] hay [tshu] và tiếng Miến Điện tiêu chuẩn ở Rangoon rất gần với tiếng Việt và Mân [tɕhɑuʔ⁴ ] (nghe gần như Cháu). 

Số 7: Bảy là một trong hai âm đọc chữ Thất 七, được sách Trung Châu Âm Vận thời Minh, tác giả Vương Văn Bích ghi nhận: “Bang mĩ thiết 邦米切, thượng thanh (hỏi hoặc ngã) và Tang tẩy thiết 倉洗切, nhập tác thượng thanh”. Các âm Mĩ, Tang, Tẩy ở đây căn cứ vào ghép vần trong chính quyển sách này. Như vậy Thất sẽ được đọc là Bĩ/Bẩy/Tẩy. Có thể tham khảo thêm chữ Thất 匹 đồng âm với Thất 七 có Mân âm Phúc Châu đọc là [pʰɛiʔ23], khớp hoàn toàn số Bảy trong tiếng Việt. 

Một Chục – Nhất Thúc 一束: Chữ Thúc 束, động từ vốn mang nghĩa bó/buộc như Thúc Thủ là Bó Tay. Xưa kia người Hán Đường thường bó nhiều sản vật 1 bó có 10 đơn vị để dễ tính nhẩm. Như 10 cái nem gọi là Nhất Thúc 一束. Tiếng Khách Gia ở Mai Huyện hiện đọc chữ này y hệt người Việt [ʦʰuk1]. Việc Chục rõ ràng có gốc từ chữ Thúc 束 không những đã khẳng định Chú chính là từ Thúc 叔 và bạch thoại Việt ngữ đã nuốt phụ âm cuối [c], mà còn chỉ ra một chuỗi dài biến âm ch/th: Chúc祝/Chú (niệm chú, lời đọc khi tế lễ, khấn), Chúc屬/Thuộc…

Muôn/Vạn 萬 -> Mài/Mười: Dùng thanh Vạn 萬 nhưng chữ chỉ con bò cạp lại đọc là Sái/Mại 蠆 (hai âm này cũng hoàn toàn tương đồng trong tiếng Khách Gia). Như vậy đã rõ, âm Mại của chữ Vạn từng để chỉ số 10. Nhiều khả năng Mài là Hán âm, Mười là Đường âm. Mài thành Mười thì cũng như Ngài -> Người vậy.

Để xác định từ nguyên của âm chỉ số 10, chúng tôi phải dựa vào chữ Nôm – Mười/Mại/Mời 邁 , vốn dùng chữ Muôn/Vạn 萬 làm thanh phù và hội ý. Theo giải thích riêng của chúng tôi Muôn/Vạn 萬 trong giáp cốt văn và kim văn vẽ hình một người vòng hai tay ôm trọn một thứ gì đó, để biểu thị rất nhiều, đầy/tràn. Có thể tham khảo thêm, đối với người cổ đại thứ gì đếm đủ một bàn tay, tức năm ngón tay, đã là nhiều: Lăm/Năm -> Lắm. Gấp đôi khả năng cầm nắm trong một bàn tay sẽ là rất nhiều.

Phải xác định rằng một số từ gốc Á Đông đã bị đặc tính phát âm của người Mân trung đại (cũng là thành phần quí tộc lập quốc Đại Việt) làm biến đổi. Đặc biệt là sự biến đổi của phụ âm đầu B/V/M. Ví dụ Minh 溟/冥 -> Bể/Biểng/Biển -> Muối -> Mặn -> Mắm; Minh 明 -> Mai/Mơi/Mới;  Vận 運 -> May/Mắn -> May Mắn; Muôn/Vạn萬 -> Mãn/Mắn/Mười. Rõ nhất là chữ 玟 (chỉ một thứ ngọc đẹp hoặc vân/vằn trong ngọc quí) có 3 âm Mai/Mân/Văn. 

B. Số 1 và 2, hành Mộc và Hỏa ngũ phân, Đoài bát phân

Sách Khổng Tử Gia Ngữ (206 BC – 220 AD) chép: 孔子曰:「昔丘也聞諸老聃曰:『天有五行,木、火、金、水、土,分時化育,以成萬物,其神謂之五帝。』Khổng tử viết: Tích Khâu dã văn chư Lão Đam viết: Thiên hữu ngũ hành, mộc, hỏa, kim, thủy, thổ, phân thì hóa dục, dĩ thành vạn vật, kì thần vị chi ngũ đế. (Khổng Tử bảo xưa kia ta cũng có nghe Lão Tử nói rằng trời có ngũ hành, mộc hỏa kim thủy thổ, để chia mùa biến cải và sinh sản trong năm, tạo thành vạn vật, đây cũng là thứ tự trước sau của các thánh thần Ngũ Đế). Ngũ đế thuận theo ngũ hành chính là: Thái Hạo, Viêm Đế, Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Chuyên Húc.

Sách Xuân Thu Phồn Lộ 春秋繁露 (206 BC – 9 AD) của Đổng Trọng Thư, phần Ngũ Hành Đối (五行對) và Ngũ Hành Chi Nghĩa (五行之義) viết: 水為冬,金為秋,土為季夏,木為春。春主生,夏主長,季夏主養,秋主收,冬主藏. Thủy vi đông, Kim vi thu, Thổ vi quý hạ, Mộc vi xuân. Xuân chủ sanh, hạ chủ trưởng, quý hạ chủ dưỡng, thu chủ thu, đông chủ tàng. (Thủy là mùa đông, Kim mùa thu, Thổ cuối mùa hạ, Mộc mùa xuân. Xuân sanh, hạ trưởng, cuối hạ dưỡng, thu co lại, đông ẩn tàng). 天有五行:一曰木,二曰火,三曰土,四曰金,五曰水。木,五行之始也;水,五行之終也;土,五行之中也。此其天次之序也. Thiên hữu ngũ hành: Nhất viết Mộc, Nhị viết Hỏa, Tam viết Thổ, Tứ viết Kim, Ngũ viết Thủy. Mộc, ngũ hành chi thủy dã; Thủy, ngũ hành chi chung dã; Thổ, ngũ hành chi trung dã. Thử kì thiên thứ chi tự dã. (Trời có ngũ hành: Một gọi là Mộc, hai là Hỏa, ba Thổ, bốn Kim, năm Thủy. Mộc là số ngũ hành đầu tiên,Thủy là số cuối, Thổ ở giữa. Đây là thứ tự của tạo hóa).

Chữ Hỏa 火 được tiếng Mân ở Việt Nam đọc là Hôi khi nói về dầu hỏa, trong khi tiếng Ngô Việt ở Đan Dương và vùng phụ cận đọc gần như Hải [hʌɣ44]. Như vậy Mộc và Hỏa là số Một và Hai trong ngũ hành có các phương âm hiện đại ở Trung Quốc khớp với tiếng Việt. Nó cho phép chúng tôi khẳng định tính chất ngũ phân cũng như niên đại của hai con số đầu tiên trong bộ số Việt ngữ. Mộc và Hỏa cùng thời với lịch ngũ quý (một năm chia ra năm mùa) theo các sách vở Hán đã ghi lại là nhà Hạ, tương tự như thời điểm Nẫm/Năm 稔 từng được dùng như chữ Niên 年.

Đôi, Đũa, Đối , Đoài

Hàng trăm nhánh ngôn ngữ Austronesian dùng các âm [dua], [duo], [duwa], [duə]… chỉ số Hai, giống hệt tiếng Latin, Hy Lạp và Italia [duo]. Phụ âm đầu D đã bị chuyển sang T, cho ra [twā] tiếng Anh cổ gốc Đức, [twee] tiếng Hà Lan và cuối cùng thành ra [two] ở Anh ngữ ngày nay.

Tháp Babel có lẽ là có thật. Ngữ âm này cho thấy khi rời Tây Á, bầy người di cư ven biển từ nam Ấn Độ đến châu Á – Thái Bình Dương đã dùng âm chỉ số Hai phổ biến là [duo] hoặc đa âm [duwa]. Âm này đi vào Hán ngữ và Việt ngữ, thành chữ Đôi/ Đối 對. Đũa là âm Á Đông trung đại khi đọc chữ Đối 對. Bằng chứng là tiếng Khách Gia ở Ninh Hóa – Phúc Kiến còn lưu tồn nguyên âm như tiếng Việt Nam [tua112] (đọc gần như Tủa, phụ âm đầu Đ đã biến thành T, không còn giữ nguyên như Việt ngữ). Âm Đũa trung đại (của chữ Đối 對) do biến âm Đ/L nên ở Phố Thành, Nam Bình, Phúc Kiến lại đọc là [lue423]. Điều này giải thích tại sao trong tự điển Việt Nam ghi nhận Trả Đũa đồng nghĩa với Trả Nủa. Đối 對 còn mang nghĩa Đáp 答, Đãi 待… Như vậy Trả Đũa chỉ mang nghĩa Đáp Trả mà thôi.

C. Số 0, 1, 2, 7 và 8: Nhị phân Dịch

Đầu thế kỷ 20, khi từ chối tài trợ cho một số đề tài liên quan, quỹ Rockefeller nổi tiếng ở Mỹ nhận định: “Các ngành nhân văn, khoa học xã hội và nghệ thuật là những lĩnh vực quá chủ quan và chứa đầy nguy cơ chính trị” (Xem sách John D. Rockefeller của Ron Chernow). Đấy là chuyện ở Hoa Kỳ. Nhìn qua Á Đông hoặc toàn thể nhân loại, chủ nghĩa thực dân đê hèn cùng thuyết Âu tâm kết hợp hài hòa với các mưu đồ chính trị của những kẻ “biết tuốt” ngu xuẩn, đã bóp méo tất cả sự thật và gieo rắc biết bao tín điều tuyệt đối hoang đường về nền tảng văn minh của chúng ta.

Trong phần này chúng tôi sẽ chứng minh văn minh Á Đông là nền văn minh đầu tiên của loài người đã tìm ra số 0 cách đây trên 3.000 năm, cùng lúc với việc phát minh ra bộ số nhị phân Dịch trên cơ sở nhị phân thuần phác của các bầy người và bộ lạc nguyên thủy. Sự tương đồng về trị số nhị phân và phương âm Hoa Nam khi đọc tên các quẻ Khôn, Bác, Bỉ, Bĩ, Khảm với Không, Một, Vài, Bảy, Tám trong tiếng Việt không còn là tình cờ và bí ẩn nữa. Chúng là những căn cứ không thể bác bỏ để khẳng định Joachim Bouvet và Leibniz đã hiệp đồng đánh cắp bộ số nhị phân Á Đông, góp phần không nhỏ xây dựng lên nền khoa học tiến bộ ở phương Tây trong thế kỷ vừa qua.

Vào năm 1701, từ Á Đông – thầy tu người Pháp là Joachim Bouvet đã gửi cho nhà toán học Đức Wilhelm Leibniz một bảng nhị phân Dịch hoàn hảo, nói theo ngôn ngữ hiện nay là bộ số xây dựng trên 6 bit gồm 64 con số từ 0 đến 63. Đến năm 1703, lần đầu tiên cái gọi là “số nhị phân được phát minh bởi Leibniz” mới ra đời trong một bài báo. Thủ thuật rất đơn giản: thay vạch đứt của Dịch bằng số không Ả Rập và dựng đứng vạch liền thành số 1 Ả Rập, chuyển cách đọc từ dưới lên thành trái qua phải. Học thuật phương tây lại còn úp mở Leibniz đã “hình dung” ra thứ này tận năm 1679 mà chẳng có bất cứ chứng cớ nào!

Điều kì lạ đã xảy ra ở đây. Năm âm số đếm bạch thoại Việt ngữ trùng khớp với tên Năm quẻ dịch và khớp luôn với giá trị trong hệ nhị phân mà nó biểu diễn: 0, 1, 2, 7, 8. Đây mới là bằng chứng hùng hồn rằng tổ tiên của trên 50% người Việt Nam đã sáng tạo ra Dịch số khi họ còn ở phương bắc, chưa nam tiến li khai và lập quốc. Nói cách khác, người Việt Nam và Trung Quốc phần nào là anh em ruột thịt, cùng một nòi giống. Có lẽ Dịch số đã được hoàn thiện vào khoảng thời Chiến quốc và ban đầu cổ nhân đã dùng số đếm để đặt tên cho các quẻ. Sau hơn 2000 năm, còn 5 âm sót lại trong tiếng Việt là hết sức hy hữu nhưng hoàn toàn không hề tình cờ.

Nhị phân là một bộ số tưởng chừng rất cao siêu nhưng hình như lại có gốc rễ cực kì thuần phác. Khi còn là những bầy người, tiền nhân tư duy rất chậm chạp và giới hạn, họ chỉ dùng số 1 và 2 để đếm. Các số lớn hơn 2 được thực hành như một bài toán mẫu giáo hiện đại. Chẳng hạn phương ngữ Kalaw Lagaw Ya trên các đảo biệt lập ở eo biển Torres giữa Papua New Guinea và Australia chỉ có số 1 [madhabaig] và 2 [ùka]. Số 3 là [2-1] (ùkamadhabaig), số 4 là [2-2] (ùkaùka)… Lấy ví dụ số 7 được biểu diễn bằng nhị phân 3 bit hiện đại là [111] = (1×22) + (1×21) + (1×20), về bản chất có sự tương đồng rất cao với logic của người cổ đại. Vậy là khi nhìn vào bản chất bộ số của các quẻ Dịch, chúng tôi đã thấy một câu trả lời về nguồn gốc khá thích hợp. Sự tương đồng về trị số nhị phân và âm đọc của tên các quẻ Khôn, Bác, Bỉ, Bĩ, Khảm với Không, Một, Vài, Bảy, Tám trong tiếng Việt không còn là tình cờ và bí ẩn nữa.

Bản thân 5 âm đang đề cặp của Dịch số cũng cho thấy tương quan ngũ phân. Tên của quẻ Dịch biểu diễn số 2 và 7 Nhị phân gần như là đồng âm dị tự. Trong hệ ngũ phân, 7 được biểu diễn bằng “5 và 2”, khi đơn âm hóa và sử dụng trong bộ số Dịch 6 bít gồm 64 con số từ 0 đến 63, cổ nhân đã giữ cả hai âm rất gần nhau Bỉ比 và Bĩ否. Hiện tiếng Khmer còn bảo tồn nguyên vẹn thể Ngũ phân này [pii] (2) và [pram pii] (7). Cổ Hán âm của Bỉ比 chính là Vài, tức số 2, mà tiếng Hmong Mien ngày nay vẫn lưu tồn: [wəi33], [va35], [vi42]…  

Quẻ Khôn khi vẽ ra đã tượng hình một vật rỗng ruột. Để chỉ sự trống rỗng, tiếng Việt dùng các từ: Trùng/Xung 沖 có bạch thoại là trống và giỗng (kí âm sai thành rỗng là biến âm như trời/giời, trầu/giàu mà thôi); trùng hư 沖虛 là hư không, trống rỗng. Không/Khống/Khổng 空, không hư 空虛 chính là hư không vậy. Khánh 罄 (trong khánh kiệt, khánh tận). Hoặc Khổng 孔 chỉ lỗ hổng, lỗ thủng.

Bảng này đã chứa đựng rất nhiều thứ mà thậm chí bản thân tác giả có thể chưa nhận thức được. Chẳng hạn sau khi lập xong bảng tôi mới phát hiện chữ Bỉ giáp cốt văn vẽ 2 người… Do vậy thuyết minh chỉ là làm rõ hơn sự hiểu biết của bản thân chúng tôi. Hy vọng bạn đọc và các thế hệ sau tiếp tục nhìn thấy vấn đề sâu hơn nữa.

D. Số 5 gốc Dương Tử cổ đại

Thể đa âm chỉ số 5 trong hầu hết các ngôn ngữ Austronesian là [lima] hoặc [nima]. Đây mới chính là từ nguyên của số 5 tức Lăm/Năm trong tiếng Việt, chứ không phải tiếng Khmer [pram] như kết luận của mấy anh tây cực dốt tiếng Việt nhưng xưng là học giả nghiên cứu Việt ngữ. Hiện có khoảng 30 ngữ chi Nam Đảo đọc số 5 là [nima], trên dưới 10 thứ tiếng khác có [nima] là tiền tố hay hậu tố của âm chỉ số 5. Số lượng âm [lima] lên đến vài trăm. Các âm này cũng chiếm phần lớn trong 36 thổ ngữ Austronesian ở Đài Loan, cũng như rất nhiều ngữ chi Champa, Indonesia, Malaysia..

Khi qua số 6, hệ ngũ phân chỉ còn sót lại ở vài chục ngữ chi, trình diễn theo công thức [nim – x], [nima – x] hay [lima – x], trong đó [x] là âm chỉ số 1. Chẳng hạn thổ ngữ Bwatoo ở đảo New Caledonia giữa Thái Bình Dương đọc số 6 là [nim bwa Ɵa:ŋ] nghĩa là “5 và 1” y hệt biểu diễn số 6 La Mã [VI]. Đặc biệt hiện nay thổ ngữ Austronesian Chru, Rhade, Jarai và Champa ở Việt Nam đọc âm chỉ số 6 tương đồng với âm chỉ số 5 trong tiếng Việt [năm]. Đây chắc chắn là ngôn ngữ hiện đại, đã qua 1 quá trình đơn âm hóa lâu dài cũng như biến âm từ thể [năm – một] của ngũ phân xa xưa, trước khi chuyển qua hệ đếm thập phân.

Có thể trù đoán cách đây khoảng 3000 năm, khi đơn âm hóa dưới ảnh hưởng của chữ viết, Lima/Nima đã rút gọn thành Lăm/Năm. Số 5 trong Việt ngữ có 1 dải biến âm rất đa dạng. Đến nay chúng tôi đã liệt kê được ít nhất 13 thể: Năm, Lăm, Nhăm, Giăm, Giằm, Lam, Lãm, Lắm, Nắm, Giam, Giám, Cầm, Cắm. Từ Nắm đến Cầm là mấy ngàn năm lịch sử ngôn ngữ Á Đông vĩ đại.

Năm -> Lăm -> Nhăm -> Giăm -> Trăm… là các bậc biến âm của âm chỉ số 5 ở Á Đông cổ đại và Ngũ là hậu âm của Nhăm. Quan hệ Nh/Ng đã được chúng tôi chỉ ra ở Người/Ngài là cổ âm của Nhi 兒. Ngoài ra Nhầm/Lầm/Lỡ/Nhỡ cũng có thể quan hệ với Ngộ 誤 như vậy. Hiện nay hàng chục phương ngữ Quảng Đông, Quảng Tây và Khách Gia ở Hoa Nam đọc chữ Ngũ 五 chỉ với phụ âm cuối [m].

Con người cổ đại vốn thật thà và không tham lam. Khi sở hữu thứ gì lên đến số ngón tay trên một bàn tay, họ đã cho là nhiều. Lúc này Lăm biến thanh để cho ra nghĩa Lắm tức là nhiều: Lắm bò, lắm trâu, lắm vợ… Lam trong Tham Lam 貪婪/惏 cũng chính là biến âm và thanh của Lắm vậy.

Nhiều ngôn ngữ Austronesian vẫn còn dùng âm chỉ số 5 để chỉ một bàn tay hay tay nói chung, nhưng tiếng Việt hình như đã đánh mất logic này. Tuy vậy, khi giữ thứ gì trong năm ngón tay, chúng ta áp dụng biến thanh để cho ra động từ Nắm. Một vốc vừa bàn tay cũng gọi là một Nắm. Co 5 ngón tay lại để tạo thành chiến cụ, sẽ có Nắm đấm. Và thậm chí Đấm – chữ Nôm Quảng Đông là Thẩm 揼 rất nhiều khả năng đồng nguyên với Nắm.

Đọc đến đây, “chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi” hay “học thuật thực dân tẩy não” chắc chắn sẽ kết luận Nắm là từ “thuần Việt”. Lãm 攬/擥 mang nghĩa Nắm/Giữ đã xuất hiện trong thư tịch thời Chiến Quốc, với Mân âm Sán Đầu và Hạ Môn hiện nay lần lượt là [nam53] và [lam53]. Cũng hết sức lưu ý, Thuyết Văn lại ghi Lãm 攬 đọc bằng âm Giam/Giám監 mà ngày nay tiếng Mân – Quảng và Khách Gia đã biến thành Cầm [kam53]. Thành ra Giam Cầm, Cầm Nắm bản chất đều là từ đẳng lập, dù rằng âm Cầm 擒 đã được viết ra thêm một chữ khác.

Cũng vào thời mẫu hệ kiêm luôn mẫu quyền ấy, một bà mà có đến LĂM chồng thì đã khá nhiều, nên gọi nhiều là LẮM. Và có lẽ sau cả hàng ngàn năm, cộng đồng tổ tiên của chúng ta mới có ý niệm về con số 100 và một nhà toán học thông minh nào đó đã quyết định dùng CHĂM là biến âm của GIĂM (như giầu/trầu, giời/trời, giăng/trăng, giai/trai…) để gọi. Số 100 thời Lý Trần và đầu Lê đọc là Lâm, căn cứ vào biểu âm Lâm林 trong chữ Nôm Trăm 𤾓/啉. Tương tự vậy là Trâu 𤛠 thời đó ký âm bằng chữ Lâu婁. Âm Trăm sau này được dùng để chỉ 100, nội hàm dân dã của nó cũng như chư Bách 百, là nhiều, rất nhiều.

Chúng tôi còn thấy hành Kim trong ngũ hành và âm Tám trong bộ số thập phân rất có thể liên đới ngữ nghĩa và biến âm từ Lăm/Năm. Vì nếu số 8 đọc là [năm và ba] rồi đơn âm hóa thành Tám thì cũng khả dĩ. Tuy vậy xin phép không tiếp tục đi sâu hơn ở đây.

E. Ba, Tám, Bốn, Chín

Số 3: Ba là âm cận đại của Bính 丙, số 3 trong hệ thập phân thiên can. Hiện ở Tam Minh, Phúc Kiến tiếng Mân Trung đọc là [pã21].

Số 4: Phóng 放 là từ nguyên của Bắn, giọng nam bộ Việt Nam tương đồng với tiếng Mân Nam, chẳng hạn [paŋ213] ở Sán Đầu. Từ đây chúng tôi đặt vấn đề Bốn có khả năng là cổ âm Dương Tử, có ít nhất hai chữ Hán chứa một phần hay toàn bộ âm Bốn và tất nhiên mang nghĩa Bốn: Bồ/Phù 扶 chỉ khoảng cách tạo nên bởi Bốn ngón tay khít vào với nhau. Phương 方 có giáp cốt văn vẽ một hình vuông Bốn cạnh. Bản thân chữ Phương 方 trong nhiều ngữ cảnh của thư tịch cổ từ thời Hán đã mang nghĩa  “tứ diện – bốn mặt”, “tứ bàng 四旁 – bốn bên”. Chúng ta có thể tham khảo logic này ngay tại tiếng Anh: Square (vuông) và Quarter (một phần tư) liên đới với Quartus/Quattuor trong tiếng La Mã (Bốn, thứ Tư).

Số 9: Chín gốc từ chữ Thân 申, số 9 trong hệ Thập nhi phân địa chi. Tiếng Mân Nam Hạ Môn hiện đọc chữ này gần như Chín [sin55/tsʰun55].

Trong ngôn ngữ hiện đại, âm chỉ số 3 của Việt ngữ lại tương đồng với âm chỉ số 8 của tiếng Trung [Ba và Bát 八] và ngược lại [Tám và Tam 三] rất giống nhau. Học thuật bạch chủng thì không thể biết tại sao, vì tất cả những thứ được gọi là nghiên cứu của chúng đều bịa đặt.

Loài người khắp nhân loại đều bắt đầu đếm bằng hệ ngũ phân. Họ dùng 5 ngón tay trên một bàn tay. Số lớn hơn 5 sẽ là [5 và 1], [5 và 2], [5 và 3]… Như vậy khoảng 4000 năm trước, khi hệ ngũ phân bắt đầu được chuyển qua thập phân rồi sau đó xuất hiện trong giáp cốt văn, cổ nhân Á Đông đã đơn âm hóa thể [5 và 3] để cho ra độc âm chỉ số 8. Vậy là đã có hai sự chọn lựa diễn ra và trái ngược nhau: Tam và Bát.

Có lẽ vùng Hoàng Hà đã dùng âm Tam chỉ số 3 và âm Bát chỉ số 8, trong khi vùng Dương Tử đã chọn Bát chỉ số 3 và Tam chỉ số 8. Nói cách khác, từ nguyên của âm chỉ số 3 trong Việt ngữ có liên quan đến Bát 八 và âm chỉ số 8 rất gần gũi với Tam 三. Tam rõ ràng có nghĩa gốc là Năm, là một biến thể của âm chỉ số 5 để không nhầm lẫn với Năm khi đếm.

F. Số đếm và Văn hóa

1. Chín phương Trời, mười phương Phật

Khi người Á Đông đã phát minh ra số 0 (quẻ Khôn) thì bộ số thập phân tự nhiên bắt đầu bằng 0 và kết thúc ở 9 mới chính là Thiên địa chi số. Khôn tượng địa. Cửu thiên là từ 1 đến 9 mà học giả Dương Hùng thời Hán gọi là Thái Huyền Số太玄數. Do vậy 9 tượng trưng cho Trời tức Ngọc hoàng thượng đế, vị thần tối cao cai quản toàn bộ vũ trụ. Trước đó ở hệ ngũ phân (nhân số) thì 5 là số lớn nhất. Từ đây sinh ra hợp đề Cửu Ngũ trong Cửu Ngũ Chí Tôn 九五至尊 chỉ ngôi vua dưới hạ giới. Hình ảnh “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” trong cổ tích của chúng ta bàng bạc tinh thần số học của Đạo giáo.

Văn minh ngoại lai sử dụng số 0 rất muộn và đạo Phật đã đem vào Á Đông nội hàm “mười phương Phật”. Nó chứng tỏ Ấn Độ cũng như các dân tộc lạc hậu khắp hoàn cầu lúc đó vẫn lấy 10 ngón tay làm bộ số tự nhiên. Nhưng lạc hậu bậc nhứt phải kể đến Tây Âu, nơi người dân vẫn miệt mài dùng hệ ngũ phân, đếm số trên một bàn tay. Đấy chính là bộ số La Mã.

Tồn tại rất nhiều giải thích lơ lửng con cá vàng giữa dòng lịch sử về nội hàm này. Nào là số chẵn mang tính âm, số lẻ thì dương. Do đó số 5 và 9 đều là số dương, 9 là số dương tối cao, nên tượng trưng cho ngôi vị của hoàng đế. Lại có thuyết dẫn Chu Dịch, quẻ Càn 乾 tượng trưng cho trời có sáu vạch liền, cực dương, cực thịnh. Trong quẻ càn này, hào số 5 từ dưới lên lại được Chu Dịch đặt tên là Cửu Ngũ, diễn đạt thành “Phi long tại thiên”…

Dễ dàng nhận thấy trong các diễn từ về số trên đây có 3 hệ lồng ghép vào nhau: 5 là số tự nhiên cực đại của hệ ngũ phân. 9 là số tự nhiên cực đại của hệ thập phân sau khi văn minh Á Đông đã phát minh ra số không. Quẻ Càn thật ra tương ứng với số 63 nhị phân cực đại 6 bit (tức 6 vạch liền).

0 đến 9 được gọi là Thiên Địa Chi Số, tức là những con số kì diệu và thần bí của đất trời. Âm bạch thoại Việt ngữ chứa 5/10 âm chỉ quẻ Chu Dịch tương đương và bằng chính giá trị nhị phân của quẻ là bất ngờ quá lớn. Việc những âm này tương đồng gần như tuyệt đối với các phương ngữ Mân/Quảng/Hẹ vốn bảo tồn cực tốt cổ Hán âm là hiển nhiên.

 Nói cách khác, nửa bộ số bạch thoại tiếng Việt là âm đếm của các nhà toán học Á Đông đã phát minh ra số nhị phân cho loài người. Tây dốt tiếng Việt là bình thường nhưng nếu người Việt mà mù quáng tin tây nói nhảm về gốc Mon Khmer của các con số Việt thì thật đau lòng!

2. Mùng năm, mười bốn, hăm ba…

Ý nghĩa mấy từ này nếu tìm bằng google Việt ngữ thì sẽ thấy thông lệ “lấy hệ quả làm nguyên nhân”, các chuyên gia học giỏm tán hươu tán vượn, nặn chữ bóp nghĩa, miệng mồm liếm thoắn, cố rặn ra cho bằng được câu trả lời để xứng với bằng cấp giỏm của mình, dù hiểu biết rất nghèo nàn về lịch sử và văn hóa Á Đông. Kiểu như “anh Cả ở quê, em Hai theo chúa Nguyễn cầm gươm đi mở cõi nên từ đó gọi là anh Hai”; “ngày ấy hoàng gia đi chơi nên dẹp đường, chả buôn bán gì được”… Thậm chí có tiến sĩ còn liên kết nhiều thứ đến cả vua Hùng (sic!). Người nghe hết đường chối. Dần dần những thứ giả học thuật quái thai lai Tây này trở nên chính thống.

Đạo giáo xưa có câu: “Sơ ngũ thập tứ nhị thập tam, lão quân lô lí bất luyện đan, quan âm lão mẫu bả môn quan 初五十四二十 三, 老君爐里不煉丹, 觀音老姥把門關”. Nghĩa là mấy ngày này Lão quân không luyện đan nữa, Lão mẫu đóng cửa nghỉ ngơi. Các bạn thấy giống Chủ nhật ngày nay hôn? Nhớ là xưa kia Á Đông chúng ta 1 tháng chỉ có 3 tuần, mỗi tuần 9 hoặc 10 ngày do tháng trăng khi đủ khi thiếu. Vậy là “Mùng năm, mười bốn, hăm ba” là ba ngày Chủ nhật Á Đông cổ đại.

Thật ra kiêng kỵ này có đến 6 ngày, gọi là Tam Nương Sát 三娘煞, rất phổ biến trong đời sống dân gian Việt – Trung: 3, 7, 13, 18, 22 và 27 âm lịch hằng tháng. Truyền thuyết kể rằng xưa có Cô Ba mặt trăng dáng hoa, nghiêng nước nghiêng thành, lòng thầm nhủ sẽ trọn kiếp quyết chờ lang quân như ý. Có lẽ vì thế mà Nguyệt Lão Tinh Quân, vị thần cai quản hôn nhân của Đạo giáo nhất định không cho Cô Ba dây tơ hồng nên duyên, dù qua đến 6 lần cầu xin trong các ngày đã nói. Đố kị và oán giận, Cô Ba trù ếm cho tất cả những đôi lứa được Nguyệt Lão kết tơ trong những ngày này toàn gặp bạc bẽo, bất hạnh và chia ly. Từ đó về sau người đời làm những việc quan trọng cũng cố tránh 6 ngày này, không riêng gì cưới hỏi.

Logic của câu chuyện: Có lẽ Đạo giáo nghĩ ra chuyện này để bách tính làm gì cũng từ tốn cân nhắc được mất, dò đá qua sông, ngừng nghỉ hợp lý, không quá nhanh chóng, xốc nổi thì không hỏng việc.

3. Di lịch

Thay vì học bọn tây biết tuốt đi vào các bộ lạc lạc hậu nhận bừa âm/từ Việt có gốc ở đấy chỉ căn cứ vào cái vỏ âm rỗng tuếch chưa bao giờ tương đồng tuyệt đối, chúng tôi khảo sát lịch đại của các dân tộc thiểu số ở Hoa Nam. Trong hình là một phiên bản Di Lịch của Di Tộc có tuổi đời 7.500 năm đến 10.000 năm, có thể là mẹ đẻ của bộ âm dương lịch mà toàn bộ Á Đông đang dùng.

Đây là lịch mặt trời, lấy mốc trước Đông chí một ngày là kết thúc năm. Sau Đông chí 5 ngày thì bắt đầu Tuần thứ nhất gồm 12 ngày đặt tên bằng 12 địa chi. Di Lịch có 5 mùa: Mộc (mùa xuân sinh trưởng), Thủy (mùa mưa đến), Hỏa (mặt trời quay lại bán cầu bắc, nóng nực), Thổ (đất đai khô ráo, thu hoạch mùa màng), Kim (mùa đông băng giá). Thứ tự này xáo trộn rất mạnh ở các phiên bản Di Lịch khác nhau, chúng tôi phải dựa vào thư tịch Chu/Tần/Hán mô tả Hạ Lịch để liệt kê theo logic.

Ba tuần Di Lịch tạo thành một tháng. Như vậy mỗi mùa có 2 tháng, phân thành đực/cái hay dương/âm (như mùa Mộc có 2 tháng Mộc Công 木公 và Mộc Mẫu 木母). 10 tháng Di Lịch, theo ý kiến của chúng tôi, đã sản sinh ra Thiên Can sau này. Một năm Di Lịch có 365 ngày và căn chỉnh bằng điểm thiên văn Đông Chí nên có độ chính xác không thay đổi theo thời gian. Đây là bộ lịch mặt trời xưa nhất và hoàn chỉnh bậc nhất của nhân loại được biết cho đến nay.

Trong Di lịch này có âm dương (đực/cái, 1,2), có ngũ phân (5 mùa), có thập phân (10 tháng), có thập nhị phân (12 con giáp). Nó chỉ thiếu số 0 của nhị phân Dịch. Rõ ràng nó hàm chứa tất cả bộ số cơ bản của loài người.

G. Kết luận

Bộ số Việt ngữ là tập đại thành toàn bộ quá trình phát minh số đếm và phát triển toán học và lịch pháp Á Đông. Từ đếm ngón tay, đếm sỏi, kết thằng, nhị phân Dịch đến toán trù, chia mùa màng, hệ can chi… Bộ số Việt ngữ vô hình trung trở thành nơi lưu giữ hầu như toàn bộ ngôn ngữ châu Á – Thái Bình Dương, phóng chiếu một sự thật rằng tổ tiên của tất cả chúng ta có cùng nguồn cội rất xa xưa. Việc chia vụn ra những ngữ hệ nhảm nhí và vô lý như Nam Đảo, Nam Á, Hán Tạng… vừa vô minh và vừa đầy âm mưu.

Xin nhắc lại ở sách Độc Đoạn của Thái Ung thời Đông Hán, bản in năm 1646 ghi nhận nhà Hạ dùng chữ Tuế/Tuổi 歲 và Nẫm/Năm 稔 để chỉ Niên 年. Niên chỉ bắt đầu được sử dụng từ triều Thương, Chu trở về sau. Mộc/Một 木 và Hỏa/Hai 火 là hai số ngũ phân đầu tiên trong ngũ hành có thể truy về lịch Ngũ quý (năm mùa) từng được Lão Tử nói với Khổng Tử. Trước đó Pháp gia Quản Trọng (720 BC – 645 BC) cũng đề cặp việc sử dụng Ngũ quý lịch 五季曆 kết hợp giữa Thập can và Ngũ hành trong thiên Ngũ hành, sách Quản Tử. Các nghiên cứu xưa nay cho rằng đây là lịch của nhà Hạ, một năm 360 ngày, 12 tháng, 5 mùa, bắt đầu từ ngày đầu tiên sau Đông chí. Lịch này hiện vẫn lưu tồn một phần trong tân lịch của người Di ở Hoa Nam.

Như vậy bốn từ lõi Một, Hai, Tuổi và Năm là mốc khởi đi của Việt ngữ, niên đại hơn 3400 năm. Chúng đã được bảo tồn như là bạch thoại, lời ăn tiếng nói dân dã địa phương vùng Dương Tử, qua Thương, Chu, Tần, Hán, Đường… và ngày nay đã trở thành tiếng Việt Nam.

Học thuật thực dân bạch chủng hậu khai vừa nhơ bẩn vừa nhảm nhí khi nói về tiếng Việt, rất nên gom hết lại rồi đốt bỏ.

Cát Lái 27.8.2023

@truongthaidu